Bài làm
Bước vào làng văn học Việt Nam ta bắt gặp một nữ sĩ với những vần thơ trang nhã cổ điển, ấy chính là Bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua Đèo Ngang và Chiều hôm nhớ nhà. Cả hai bài thơ này được làm theo thể thơ Đường luật mẫu mực, phong vị cổ điển, lời ít ý nhiều. Chính nhờ điều này mà hai bài thơ sống mãi với thời gian.
Thi pháp cổ điển ấy chính là văn chương bác học, dùng nhiều điển cố, điển tích, ngôn ngữ thơ điêu luyện, chắt lọc... Trong hai bài thơ trên của Bà Huyện Thanh Quan thể hiện rõ vấn đề này.
Trước hết, điểm nổi bật trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ tinh tế mà đượm buồn. Cả hai bài thơ ta đều bắt gặp một khung cảnh gợi buồn, gợi nhớ nhất trong một ngày. Cảnh Đèo Ngang trong lúc xế bóng vắng vẻ hoang sơ:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
(Qua Đèo Ngang)
Còn trời chiều trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Đối diện với khung cảnh này thì những người hời hợt lắm cũng phải buồn chứ không nói gì đến người giàu cảm xúc như nữ sĩ.
Nếu như trong bài Qua Đèo Ngang tín hiệu nghệ thuật đầu tiên mà tác giả sử dụng là bóng xế tà thì bài thơ Chiều hôm nhớ nhà cũng đồng thời là bóng hoàng hôn. Thơ xưa khi nói về tâm sự, nỗi buồn người ta thường mượn cảnh để ký thác đặc biệt là hình ảnh bóng chiều. Bác Hồ của chúng ta sau này đã từng thể hiện thành công hình ảnh chiều tà thể hiện sự vất vả và ý chí, nghị lực của người tù
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không...
(Chiều tối)
Buổi chiều gợi cho ta cảm giác nhớ nhà, nhớ gia đình người thân. Đặc biệt đây lại là tâm trạng của kẻ lữ thứ xa quê, trên đỉnh đèo Ngang chỉ có:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
thì ở Chiều hôm nhớ nhà cũng hoang vắng đến lạnh lùng:
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Đây là âm thanh rõ nhất khiến ta cảm giác đầy đủ nhất. Ta nghe thấy tiếng ốc nhưng lại xa đưa, lúc khoan lúc nhặt nghe thật buồn tẻ. Cái âm thanh đó chỉ làm sâu hơn nỗi buồn của nhà thơ.
Cả hai bài thơ tác giả chỉ thấy cuộn lên một nỗi buồn, nỗi buồn sâu thẳm mênh mông. Xa chốn kinh kỳ ồn ã náo nhiệt vào làm quan ở Huế, lòng nữ sĩ có bao nỗi buồn chất chứa. Kinh thành Thăng Long nơi bà từng sống nó khác hẳn với cuộc sống nơi này - đèo Ngang.
Hình ảnh con người trong hai bài thơ này chỉ thoáng bóng. Đó chính là những người dân lao động nghèo vất vả, lam lũ. Cuộc sống của họ thật tẻ nhạt, đơn sơ
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
(Qua Đèo Ngang)
Và
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Thủ pháp nghệ đảo ngữ nhuần nhị tạo nên một hình ảnh thưa thớt, vắng vẻ của cuộc sống con người nơi đây. Vài chú tiều phu đốn củi lom khom, lác đác mấy ngôi nhà chợ thưa thớt, cô tịch, đìu hiu. Hai câu thực trong bài Qua Đèo Ngang đối nhau rất chỉnh, tạo sự hài hoà và phô rõ cuộc sống của con người nơi Đèo Ngang. Đèo Ngang lúc này hoàng hôn đã buông xuống, mọi hoạt động của con người cũng lắng xuống, không còn sự ồn ào, xao động của thời điểm trước đó. Vì vậy Bà Huyện Thanh Quan không thể vui vẻ, càng không thể hững hờ trước cảnh buồn man mác đó.
Nhưng nỗi niềm u hoài ấy là gì? Đó là nỗi niềm u uẩn trong lòng nữ sĩ. Bà nhớ về một thời xa xưa, dĩ vãng. Cái thời vàng son mà bà từng chứng kiến nó thật lộng lẫy tươi đẹp biết bao. Giờ đây, trước cảnh vật, trong lòng nữ sĩ cháy bỏng lên một tâm sự nhớ nước, thương nhà sau tiếng kêu đều, khoan nhặt của chim quốc, gia gia.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Qua Đèo Ngang)
Nghệ thuật chơi chữ quốc là nước, gia là nhà. Tiếng quốc kêu hay chính lời non nước, tiếng cuốc kêu hay chính hồn Thục Đế. Sự đồng điệu trong âm thanh da diết không dứt ấy làm tâm hồn nhà thơ rộn lên, nao lên trong niềm nhớ nhà nhớ nước. Tiếng cuốc kêu như ứng với tiếng gọi tha thiết, mãnh liệt nhất trong tâm tư tình cảm của bà. Tiếng gọi gửi về đất nước? Tiếng gọi gửi về quê hương?
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Rặm liễu sương sa khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Chiều xế bóng, mặt trời sắp tắt, bóng đêm dần bao phủ ngay cả những chú chim cũng đang tìm chốn ngủ, những bước chân lữ thứ tìm quán trọ qua đêm... Bà Huyện Thanh Quan nhớ lắm thương lắm muốn trở về, gặp lại quê hương, gặp lại người thân nhưng đành bất lực:
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Ở đây tác giả sử dụng điển cố: Chương Đài để thể hiện sự mong mỏi xa cách giữa tác giả và người thân, quê hương gia đình. Lấy ai để tâm sự, giãi bày nỗi: hàn ôn. Và vì vậy đối diện với mây trời non nước Đèo Ngang nữ sĩ như gặp lại chính mình:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Mảnh tình riêng ấy là tâm sự cô đơn, bé nhỏ trước mây trời, sông nước. Bà và cảnh đã hoà làm một bởi có chung một tâm trạng. Cảnh bao la rộng lớn nhưng buồn bởi vì chủ thể trữ tình đang chất chứa một tâm trạng u hoài. Tâm sự chất chứa ấy lại bắt gặp chính nó: ta với ta, mấy ai mà bày tỏ, hàn huyên tâm sự. Cái cổ điển chính là mượn cảnh để tả tình, trong tình có cảnh. Vần thơ buồn nhớ, cô đơn đến vô cùng.
Hai bài thơ trên là điển hình cho phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan. Chất cổ điển, trữ tình hoà quyện tạo nên thành công nổi bật cho hai bài thơ. Dẫu đã gấp trang sách lại chúng ta không thể nào quên những vần thơ trác tuyệt như vậy.