A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. TÁC GIẢ
1. Tiểu sử cuộc đời
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Năm 1950, ông gia nhập quân đội, theo học trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Từ 1952- 1958, ông công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320. Năm 1962, ông công tác tại Phòng Văn nghệ Quân đội sau đó chuyển sang tạp chí Văn nghệ Quân đội.
- Năm 2000, Nguyễn Minh Châu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. Sự nghiệp văn học
Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia thành hai giai đoạn:
- Trước thập kỉ 80, có những tác phẩm tiêu biểu: Cửa sông (1967), Những vùng trời khác nhau (1970), Dấu chân người lính (1972),.
- Từ đầu thập kỉ 80 đến khi mất, có những tác phẩm tiêu biểu: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987),...
3. Phong cách nghệ thuật
- Trước thập kỉ 80, Nguyễn Minh Châu là cây bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Sáng tác của ông thuộc về những đề tài chiến tranh, thể hiện tình yêu nước, tình đồng chí, đồng bào.
- Từ đầu thập kỉ 80 trở về sau, Nguyễn Minh Châu chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách
“Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Ông là người luôn khao khát “đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”.
II. TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
1. Hoàn cảnh ra đời
Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 là tác phẩm in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu. Truyện được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn gồm 15 truyện (in năm 1987). Truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
2. Tóm tắt
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng được trưởng phòng giao nhiệm vụ phải chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù để bổ sung cho bộ lịch nghệ thuật thuyền và biển. Phùng trở lại chiến trường xưa ở ven biển miền Trung và vác máy nằm “phục kích”, anh đã chụp được cái khoảnh khắc “đắt” trời cho. Đó là cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ...”. Anh cảm thấy tâm hồn như được thanh lọc, thăng hoa cùng sự khám phá, sáng tạo ấy.
- Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, trước mắt Phùng là cảnh tượng: người chồng tới tấp đánh vợ, đứa con ngăn bố với thái độ thù ghét cha. Cảnh ấy cứ tiếp diễn ở mấy ngày sau.
Chứng kiến câu chuyện giữa người đàn bà kia với Chánh án toà án huyện tên là Đẩu (người đồng đội xưa của Phùng), Phùng mới nhận ra mọi lẽ. Người phụ nữ khốn khổ kia phải cam chịu một bề, không chống trả những trận đòn và cũng không chịu giải thoát cho mình là vì tình thương con vô bờ bến. Phùng cay đắng nhận ra rằng ẩn sau cảnh đẹp toàn bích toàn mĩ kia là bao ngang trái, trớ trêu của đời thường mà anh chưa hiểu hết.
Trưởng phòng rất hài lòng tấm ảnh của Phùng. Nó còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong những nhà sành nghệ thuật. Nhưng đối với Phùng, mỗi lần nhìn thấy nó là anh cảm thấy ám ảnh, những trăn trở về cuộc sống, con người, về nghịch lí cuộc đời mà anh đã chứng kiến.
3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật
Nội dung
• Hai phát hiện của người nghệ sĩ
- Phùng đã chụp được một bức ảnh về chiếc thuyền ngoài xa tuyệt đẹp: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc...”. Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc. Đó là niềm hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu, anh đã cảm nhận như “... chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.”
- Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, lão đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau. Một đứa con trai phản ứng quyết liệt với cha để che chở, bảo vệ cho mẹ. Đây là sự thực đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ như trò đùa quái ác của cuộc sống. Đó là thứ thuốc rửa quái đản làm cho thước phim huyền diệu mà anh đã dày công chụp kia trở nên khủng khiếp. Chứng kiến nghịch lí ấy, Phùng đã “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu tôi cứ đứng há miệng ra nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Hành động đó nói lên nhiều điều (Giây phút giác ngộ của người nghệ sĩ trước sự thật cuộc đời; thái độ phản ứng bất bình của người nghệ sĩ mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời...).
* Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện
- Đẩu (vị bao công, một người tốt bụng và đầy trách nhiệm) khuyên người đàn bà từ bỏ người chồng vũ phu. Anh nói rất hào hứng xuất phát từ lương tâm của người bảo vệ công lí: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn...Chị không thể sống nổi với người chồng vũ phu ấy đâu”. Tưởng rằng đó là lí lẽ tuyệt đẹp người đàn bà sẽ hoàn toàn đồng tình với mình. Nhưng ngược lại, người đàn bà vái lạy lia lịa: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Rồi bà kể về cuộc đời mình, cuộc sống khó khăn thiếu thốn trên biển; “Ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái chúng tôi toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối...” Đặc biệt là vì thương con “... Sống là để cho con chứ không phải cho mình...”.
- Đó là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu rõ nguyên do của những điều nghịch lí của cuộc sống mà con người buộc phải chấp nhận: “trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo”. Nhìn bề ngoài, đó là người đàn bàn quá nhẫn nhục, cam chịu, bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu. Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vô bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu, trân trọng từng giọt hạnh phúc nhỏ nhoi. Thật cảm động khi nghe lời tâm sự “ ... Vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con chúng tôi được ăn no...”!
- Qua câu chuyện của người đàn bà làng chài, tác giả giúp người đọc hiểu rõ: ta không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống, nhất là đối với người nghệ sĩ.
* Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”
- Bức ảnh ấy của Phùng được nhiều người rất ưng ý. Nhưng với Phùng, mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, anh đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai...”. Nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Đó là chất thơ, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc sống, là biểu tượng của nghệ thuật, nhưng cũng là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh.
- Qua đây, nhà văn như muốn gửi đến mọi người một thông điệp: nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời. Người nghệ sĩ cần phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực, nhìn vào số phận mỗi con người. Nghĩa là hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và hiện thực.
* Về các nhân vật trong truyện
- Về người đàn bà vùng biển:
+ Tác giả gọi một cách phiếm định “người đàn bà”. Điều tác giả gây ấn tượng chính là số phận của chị. Ngoài 40 tuổi, đường nét thô kệch, mặt rỗ, khuôn mặt mệt mỏi, áo quần bạc phếch rách rưới, công việc nặng nhọc “thức trắng đêm kéo lưới”... gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, nhiều cay đắng.
+ Thường xuyên bị chồng đánh đập hành hạ, khi các con còn nhỏ thì đánh tại thuyền, khi các con lớn vì không muốn làm tổn thương các con nên bà xin chồng lên bờ để đánh. Bà thầm lặng chịu mọi đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần, khi bị chồng đánh không kêu van, không chống trả, không trốn chạy, dường như “tình thương con cũng như nỗi đau, sự thâm trầm trong cái việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng để lộ ra bên ngoài”... Đó là một sự cam chịu đáng chia sẻ, cảm thông.
+ Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha.
- Về người đàn ông độc ác:
+ Đáo là một gã có thân hình cao lớn, lưng rộng và công như một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt độc dữ, chân đi chữ bát bước từng bước chắc chắn. Cuộc sống đói nghèo, lam lũ đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu.
+ Lão thường xuyên đánh vợ và coi đó như một phương thức giải tỏa uất ức nên mỗi lần đánh vợ lão lại “... nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn...”.
+ Suy cho cùng thì lão vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy? Đây là trăn trở của nhà văn và cũng là điều nhức nhối trong lòng của tất cả mọi người khi đọc tác phẩm này.
- Chị em thằng Phác:
Cả hai đều bị đẩy vào tình thế khó xử khi ở trong hoàn cảnh ấy
+ Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, cô đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, ngăn em làm việc trái luân thường đạo lí. Cô bé là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện.
+ Thằng Phác thương mẹ theo kiểu một cậu bé con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển. Nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chặng chịt”, “nó tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Thật khó có thể chấp nhận cách bảo vệ mẹ của thằng Phác nhưng người đọc lại vừa cảm thông, vừa cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào của nó.
- Người nghệ sĩ nhiếp ảnh (sự hóa thân của nhà văn):
+ Phùng vốn là người lính thường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh.
+ Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra sự bạo hành của cái xấu, cái ác ngay sau cảnh đẹp huyền ảo trên biển. Hơn bao giờ hết, Phùng hiểu rõ: trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy làm một người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.
+ Phải chăng Nguyễn Minh Châu muốn thông qua nhân vật này mà kêu gọi: Hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời...
b. Nghệ thuật
- Tác giả đã tạo dựng được một “tình huống nhận thức” độc đáo, tình huống có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống và chân lí nghệ thuật. Tình huống lại được kể, được nhìn qua điểm nhìn của nghệ sĩ Phùng, nhân vật trong truyện nên câu chuyện trở nên gần gũi, khách quan, giàu tính thuyết phục.
- Cách triển khai cốt truyện sáng tạo, khắc hoạ nhân vật tài tình, giọng kể trầm tĩnh, lời văn giản dị đời thường nhưng mang ý nghĩa thế sự lớn lao...
3. Chủ đề
Qua câu chuyện về những phát hiện của nhân vật Phùng, Chiếc thuyền ngoài xa thể hiện rõ nét những chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn bó với cuộc đời, người nghệ sĩ phải nhìn đời và con người một cách đa chiều, đa diện. Đồng thời truyện còn chất chứa một niềm thương yêu tha thiết của tác giả đối với những mảnh đời cơ cực, những thân phận trớ trêu.
B. BÀI TẬP VẬN DỤNG
I. ĐỀ BÀI
1. Đề số 1
Giải thích ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu).
2. Đề số 2
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người đàn bà làng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
3. Đề số 3
Trong suốt cuộc đời viết văn của mình, Nguyễn minh Châu luôn trăn trở để gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người. Điều đó thể hiện như thế nào trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
II. GỢI Ý LÀM BÀI
1. Đề số 1
Bài viết cần nêu được những nội dung sau:
- Nhan đề Chiếc thuyền ngoài ra được hiểu với nghĩa ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Chiếc thuyền ấy hiển hiện thật trong cuộc đời thật. Ở trên đó có một gia đình của người đàn bà làng chài. Đàn con nheo nhóc, cuộc sống đói kém, chật vật làm cho con người thay đổi tâm tính nhiều. Người chồng vốn hiền lành trở nên thô lỗ, vũ phu, xem việc đánh vợ là một phương thức giải toả uất ức. Nhưng nhìn từ xa không thể thấy được cảnh tượng đó.
- Chiếc thuyền ở ngoài xa cũng trở nên cô đơn, sự cô đơn của con thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc đời, cũng là sự đơn độc của con người trong cuộc đời. Phùng đã chụp được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm, vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một chân lí của tự hoàn thiện. Chiêm ngưỡng nó - một biểu tượng của sự toàn mĩ - anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trong ngần. Nhưng khi chiếc thuyền tiến sát vào bờ, chứng kiến cảnh tượng người đàn ông đánh vợ tàn nhẫn, Phùng đã kinh ngạc và vứt chiếc máy ảnh xuống đất... Phùng nhận ra rằng, cái đẹp ngoài xa kia cũng ẩn chứa nhiều ngang trái và nghịch lí. Nếu không tiến gần thì không thể nào phát hiện ra được. Xa và gần, bên ngoài và sâu thăm chính là cách nhìn nhận, cách tiếp cận và đánh giá của nghệ thuật chân chính. Nghĩa là nghệ thuật cần có cái nhìn toàn diện về cuộc đời.
2. Đề số 2
Bài viết cần nêu được những nội dung sau:
- Nhân vật người đàn bà làng chài là hiện thân của những mảnh đời tối tăm, cơ cực và tủi nhục vẫn còn tồn tại quanh ta.
- Cuộc sống dù lam lũ, vất vả, người đàn bà vẫn hiện lên vẻ đẹp của một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
- Nghệ thuật thể hiện tâm trạng nhân vật chân thực, tinh tế, sâu lắng, nhiều tình tiết bất ngờ và hấp dẫn.
3. Đề số 3
Bài viết cần nêu được những nội dung sau:
- Chiếc thuyền ngoài xa là một câu chuyện buồn về hiện thực cuộc sống xù xì thô nháp, con người phải đối diện với cái xấu cái ác để sinh tồn. Những nhân vật trong tác phẩm là hiện thân cho những mảng đời tăm tối cơ cực đã và đang tồn tại trong cuộc sống của chúng ta (nhân vật người đàn ông, người đàn bà làng chài và bị kịch trong gia đình thuyền chài, tham khảo phần nội dung về các nhân vật trên).
- Nhưng dưới con mắt của người nghệ sĩ, cuộc sống vẫn ánh lên những niềm tin, hi vọng về vẻ đẹp phẩm chất con người (thể hiện tập trung qua vẻ đẹp người đàn bà làng chài): Đó là bản năng hướng đến sự sống, là tấm lòng bao dung, tình mẫu tử thiêng liêng nhất, tha thiết nhất...(Tham khảo phần nhân vật người đàn bà làng chài).
- Sự khắc khoải của Nguyễn Minh Châu trước cuộc sống đầy rẫy những nhọc nhằn, vất vả: Làm thế nào để cuộc sống mỗi con người không bị chà đạp? Đó chính là chiều sâu giá trị nhân văn kết đọng trong tác phẩm. (thể hiện qua nhân vật nghệ sĩ Phùng).