A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. TÁC GI

1. Tiểu sử cuộc đời

- Lỗ Tấn (1881-1936), tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, miền Đông Nam Trung Quốc. Lỗ Tấn xuất thân trong một gia đình quan lại sa sút. Năm Lỗ Tấn 13 tuổi, cha ông bỗng lâm bệnh, sau đó, vì không tiền chạy chữa mà mất. Từ đó, ông ôm mộng học nghề y để chữa bệnh cho những người như bố ông.

- Tuổi trẻ của Lỗ Tấn đã nhiều lần đổi nghề hi vọng tìm một con đường cống hiến cho dân tộc: từ nghề khai mỏ đến hàng hải rồi nghề y. Nhưng khi đang học nghề y ở Nhật, trong một lần đi xem phim, ông thấy những người Trung Quốc khoẻ mạnh hăm hở đi xem người Nhật chém một người Trung Quốc làm gián điệp cho quân Nga, ông bỗng thấy: chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân. Ông bỏ nghề y và chuyển sang làm văn nghệ từ đó.

- Con đường gian nan để chọn nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn lịch sử Trung Hoa thời cận đại, vừa nói lên tâm huyết của một người con ưu tú của n tộc. Năm 1981, ông được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.

2. Sự nghiệp văn học

- Lỗ Tấn được xem là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc thế kỉ XX. Trước Lỗ Tấn chưa hề có Lỗ Tấn; sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn” (Quách Mạt Nhược).

- Quan điểm sáng tác văn nghệ của Lỗ Tấn được thể hiện nhất quán trong toàn bộ sáng tác của ông: phê phán những căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội, tự thoả mãn “ngsay trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa s”.

- Tác phẩm chính: AQ chính truyện (kiệt tác của văn học hiện đại Trung Quốc và thế giới), các tập Gào thét, Bàng hoàng, Truyện cũ viết theo lối mới, và hơn chục tập tạp văn có giá trị phê phán, tính chiến đấu cao.

3. Phong cách nghệ thuật

- Truyện của Lỗ Tấn được xem là kiểu truyện chính trị, mỗi thiên truyện của ông được xem là liều thuốc để chữa lành những căn bệnh “him nghèo” từ lâu của quốc dân.

- Tác phẩm của ông chủ yếu thuộc hai mảng đề tài: người lao động và tiểu trí thức. Cả hai đối tượng này đều là những con người nghèo đói, bị áp bức,...

- Truyện của ông không cầu kì về hình thức nhưng thật sự độc đáo về nội dung, phong cách. Đó là tính triết lí, khái quát cao trong những sáng tác của ông.

II. TÁC PHẨM THUỐC

1. Hoàn cảnh ra đời

Thuốc được viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ. Đây là thời kì đất nước Trung Hoa bị các đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa, nhưng nhân dân lại an phận chịu nhục. “Người Trung Quốc ngủ mê trong một i nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” (Lỗ Tấn). Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thoả mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Chính nhà cách mạng lỗi lạc thời này là Tôn Trung Sơn cũng nói: “Người Trung Quốc một con bệnh trầm trọng. Thuốc đã ra đời trong bối cảnh ấy với một thông điệp: cần suy nghĩ nghiêm khắc vmột phương thuốc để cứu dân tộc.

2. Tóm tắt

Thuyên mắc bệnh lao. Một đêm mùa thu trời chưa sáng, mẹ Thuyên đưa tiền cho chồng (lão Hoa) ra chỗ hành hình người cộng sản mua bánh bao tẩm máu của người tử tù tên Hạ Du về chữa bệnh cho con...

Thuyên ăn bánh bao tẩm máu nhưng vẫn ho, Thuyện nghe tim đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực, lại một cơn ho...

Khi Thuyên đã ăn xong bánh, trong quán trà nhà lão Hoa đã đông khách. Họ bàn tán lao xao về thứ gọi là “thần dược” chữa bệnh lao mà lão Hoa đã mua lúc sớm và bàn về người tử tù Hạ Du.

Tiết thanh minh năm ấy, trời lạnh. Hai bà mẹ đứng trước hai nấm mộ, một của người chết vì bệnh lao dù đã uống “thuốc”, một của người chết vì làm “giặc”. Hai nấm mộ nằm trong khu nghĩa địa, được cách nhau bởi một con đường mòn. Một bà mẹ gọi tên con mình là Du trong tiếng khóc nức nở, khi nhìn thấy những bông hoa được kết thành vòng tròn trên mộ con mình. Bà nguyền rủa những kẻ giết con mình và khao khát được nhìn thấy hồn con nhập vào con quạ trên cành cây. Bà Hoa khuyên người mẹ ấy ra về. Hai người đi một đoạn thì con quạ cất tiếng kêu rồi vút bay về chân trời xa.

3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật

a. Nội dung

Ý nghĩa nhan đề truyện và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu

- Thuốc, nguyên văn là “Dược” (trong từ ghép dược phẩm), phản ánh một quá trình suy tư nặng nề của Lỗ Tấn (động cơ và mục đích đổi nghề của Lỗ Tấn). Nhận thức rõ thực trạng của người dân Trung Quốc thời bấy giờ “ngu muội và hèn nhát, nhà văn không có ý định và cũng không đặt ra vấn đề bốc thuốc cho xã hội mà chỉ muốn lôi hết bệnh tật của quốc dân, làm cho mọi người chú ý và tìm cách chạy chữa”. Tên truyện chỉ có thể dịch là Thuốc (Trương Chính), Vị thuốc (Nguyễn Tuân) chứ không thể dịch là Đơn thuốc (Phan Khải). Nhan đề truyện có nhiều nghĩa.

- Tầng nghĩa ngoài cùng là phương thuốc truyền thống chữa bệnh lao (cái bánh bao tẩm máu). Để rồi con bệnh không những không khỏi mà còn ho dữ dội hơn và cuối cùng là chết trong mùi hôi tanh của máu người

"Bánh bao tẩm máu người”, nghe như chuyện thời trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước Trung Hoa trì trệ. Đây li là thứ thuốc chữa bệnh lao! Thứ mà ông bà Hoa Thuyên xem là “tiên dược” để cứu mạng đứa con “mười đời độc đinh” đã không cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó - đó là thứ thuốc mê tín. Trong truyện, bố mThuyền đã áp đặt cho nó một phương thuốc quái gở. Và cả đám người trong quán trà cũng cho rằng đó là thứ thuốc tiên. Như vậy, tên truyện còn hàm nghĩa sâu xa hơn, mang tính khai sáng: đây là thứ thuốc độc, mọi người cần phải giác ngộ ra rằng cái gọi là thuốc chữa bệnh lao được sùng bái là một thứ thuốc độc. Người Trung Quốc cần phải tỉnh giấc, không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có sửa sổ”.

- Chiếc bánh bao - liều thuốc độc lại được pha chế cùng với máu của người cách mạng - một người xả thân vì nghĩa, đổ máu cho sự nghiệp giải phóng nông dân... Nhưng những người dân ấy (bố mẹ Thuyên, ông Ba, Cả Khang...) lại dửng dưng, mua máu người cách mạng để chữa bệnh.... Với hiện tượng chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du, Lỗ Tấn đã đặt ra một vấn đề hết sức hệ trọng là ý nghĩa của hi sinh. Tên truyện vì thế mang tầng nghĩa thứ ba: Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng.

* Cuộc bàn luận trong quán trà nhà lão Hoa

- Chủ đề bàn luận của những người trong quán trà của lão Hoa trước hết là công hiệu của “thứ thuốc đặc biệt”. chiếc bánh bao tẩm máu người. Từ việc bàn về công hiệu của chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du họ chuyển sang bàn về bản thân nhân vật Hạ Du.

- Người tham gia bàn luận tán thưởng rất đông song phát ngôn chủ yếu vẫn là tên đao phủ Cả Khang, ngoài ra còn một người có tên kèm theo đặc điểm (cậu Năm gù) và hai người chỉ có đặc điểm (Người râu hoa râm”, “anh chàng hai mươi tuổi”). Họ đều cho rằng bánh bao tẩm máu là một thứ tiên dược” và Hạ Du làm cộng sản là một kẻ điên, đã dám làm giặc.

- Qua những lời bàn luận ấy, Lỗ Tấn muốn cho ta thấy:

+ Căn bệnh đớn hèn của người dân Trung Hoa bấy giờ, họ quá ngu muội và lạc hậu về phương thuốc chữa bệnh.

+ Sự ngu muội, đớn hèn của người dân Trung Hoa bấy giờ về cách mạng.

* Không gian, thời gian của truyện và chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du

- Câu chuyện kể được khuôn vào trong hai thời điểm của mùa thu và mùa xuân. Buổi sáng đầu tiên có ba cảnh: cảnh sáng tinh mơ mùa thu lão Hoa đi mua bánh bao tẩm máu người, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn bánh, cảnh quán trà.... Ba cảnh gần như liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quán trà và đường phố là nơi tụ tập của nhiều loại người do đó hình dung được dư luận và ý thức xã hội. Buổi sáng cuối cùng là vào dịp tết Thanh minh- mùa xuân tảo mộ. Mùa thu lá rụng, mùa xuân đâm chồi nảy lộc, gieo mầm.

- Vòng hoa trên mộ Hạ Du: Có thể xem vòng hoa là cực đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”. Phủ định vị thuốc là bằng chiếc bánh bao tẩm máu, tác giả mơ ước tìm kiếm một vị thuốc mới- chữa được cả những bệnh tật về tinh thần cho toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ “ý nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.

- Không gian, thời gian truyện cùng với chi tiết vòng hoa trên mộ HDu làm cho chủ đề tư tưởng tác phẩm mới được thể hiện trọn vẹn, nhờ đó mà không khí của truyện vốn rất u buồn tăm tối song điều mà tác giả đưa đến cho người đọc không phải là tư tưởng bị quan.

b. Nghệ thuật

Cốt truyện của tác phẩm được tác giả tạo dựng khá đơn giản, giống như một bức tranh với vài nét chấm phá tinh tế. Nhưng nó đã mang đến nhiều tầng nghĩa nhờ vào sự chắt lọc ngôn từ, hình tượng và cách sắp đặt thời gian và không gian nghệ thuật khéo léo.

3. Chủ đề

Truyện đề cập đến hai vấn đề: sự ngu muội của quốc dân và bi kịch của người cách mạng tiên phong. Qua đó, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề là làm thế nào để tìm ra một phương thuốc chữa bệnh đớn hèn, ngu muội của dân tộc. Đồng thời, thông qua hình tượng của truyện, tác giả cũng đã hoạch định ra một lời đáp là phải làm một cuộc cách mạng thực s, cuộc cách mạng của quần chúng và vì quần chúng.

B. BÀI TẬP VẬN DỤNG

I. ĐỀ BÀI

1. Đề số 1

Hãy tóm tắt truyện Thuốc của Lỗ Tấn.

2. Đề số 2

- Trước khi trở thành nhà văn, Lỗ Tấn đã học những nghề nào? Tại sao cuối cùng ông chuyển sang làm văn nghệ? Nêu tên 3 tác phẩm của ông.

3. Đề số 3

Ý nghĩa bao trùm tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn.

4. Đề s4

Trong truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn, khách trong quán trà nhà lão Hoa đã bàn luận về những vấn đề gì? Qua đó, điều mà tác giả muốn nói là gì?

II. GỢI Ý BÀI LÀM

1. Đề s1

Bài viết cần nêu được những nội dung sau:

- Sáng sớm mùa thu, lão Hoa, chủ quán trà đến pháp trường mua thuốc chữa bệnh lao cho con. Thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu của người chiến sĩ cách mạng Hạ Du.

- Bà Hoa cho con ăn bánh với niềm tin chắc chắn con sẽ khỏi bệnh.

- Những người khách trong quán trà bàn về thuốc, về Hạ Du và cho anh là điên.

- Buổi sáng thanh minh năm sau, bà Hoa và bà mẹ Hạ Du cùng đến thăm mộ con, họ đồng cảm và ngạc nhiên khi thấy vòng hoa trên mộ của Ha Du.

2. Đề số 2

Bài viết cần nêu được những nội dung sau:

- Trước khi trở thành nhà văn, Lỗ Tấn đã học những nghề: hàng hải với ước mong mở rộng tầm mắt, học nghề khai thác mỏ với nguyện vọng làm giàu cho Tổ quốc, học nghề y để chữa bệnh cho dân nghèo như bố ông.

- Đang học y khoa ở Tiên Đài (Nhật), ông đột ngột đổi nghề vì: Một lần xem phim, ông thấy nhiều người Trung Quốc khỏe mạnh hăm hở đi xem người Nhật chém một người Trung Quốc làm gián điệp cho Nga (chiến tranh Nga -Nhật), ông giật mình, nghĩ rằng chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân. Ông chủ trương dùng ngòi bút để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân và lưu ý mọi người tìm phương chữa trị.

3. Đsố 3

Bài viết cần nêu được những nội dung sau:

- Truyện xoay quanh về phương thuốc chữa bệnh của người dân Trung Quốc đương thời và về người chiến sĩ tiên phong bị xử tử. Người dân Trung Quốc bấy giờ cho rằng bánh bao tẩm máu người là một thứ “tiên dược”. Hình ảnh lão Hoa “vội vàng móc gói bạc trong túi ra mua chiếc bánh bao nhum máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt,...” cho thấy sự ngu muội, lạc hậu của quần chúng về phương thuốc chữa bệnh và dã tâm của bọn đồ tể bán máu người.

- Hạ Du là người chiến sĩ cách mạng tiên phong đã hi sinh. Quốc dân lại cho rằng hành động của HDu là “điên”, làm cách mạng là làm “giặc”: “Cái thằng nhãi con ấy kng muốn sống nữa... nằm trong tù mà còn dám rủ lão đề lao m giặc... hắn điên thật rồi !”. Qua đó, tác phẩm phê phán sự ngu muội, lạc hậu của quần chúng về chính trị.

4. Đề số 4

Bài viết cần nêu được những nội dung sau:

- Khách trong quán trà nhà lão Hoa đã bàn luận về những vấn đề sau:

+ Phương thuốc chữa bệnh lao: bánh bao tẩm máu người.

+ Người chiến sĩ cách mạng tên là Hạ Du.

Qua những cuộc n luận đó, điều mà nhà văn Lỗ Tấn muốn nói là:

+ Sự u mê, lạc hậu của người dân về phương thuốc chữa bệnh.

+ Sự u mê, lạc hậu của người dân về cách mạng.