Chương ba: Các nước Á, Phi và Mĩ Latinh

Trung Quốc

- Sự thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

- Sau khi kháng chiến chống Nhật kết thúc, từ năm 1946 ở Trung Quốc lại diễn ra cuộc nội chiến giữa một bên là nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với một bên là lực lượng của Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Cuối 1949, lực lượng của Đảng Cộng sản giành được thắng lợi lớn, Tưởng Giới Thạch bị thua phải chạy ra Đài Loan. Cuộc nội chiến kết thúc. Ngày 1 - 10 - 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố thành lập, do Mao Trạch Đông làm Chủ tịch.

- Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thắng lợi, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập có ý nghĩa lịch sử lớn lao:

+ Chấm dứt hơn 100 năm nô dịch và thống trị của đế quốc, xóa bỏ tàn dư phong kiến, đưa nước Trung Hoa bước vào kỉ nguyên độc lập, tự do và tiến lên CNXH.

+ Tăng cường lực lượng CNXH trên phạm vi thế giới, làm cho CNXH nối liền từ châu Âu sang châu Á.

Ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, trong đó có Việt Nam.

- Giai đoạn mười năm đầu xây dựng chế độ mới (1949-1959).

Mặc dù đã kết thúc cuộc nội chiến, nhưng đất nước Trung Quốc gặp muôn vàn khó khăn. Nhân dân Trung Quốc phải đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và giáo dục.

Để thực hiện được mục đích trên, Trung Quốc tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, tiến hành công nghiệp hóa.

- Thành tựu: Đến cuối năm 1952, công cuộc khôi phục kinh tế thành công, kế hoạch 5 năm (1953 - 1957) thu được nhiều thắng lợi, bộ mặt đất nước thay đổi.

- Thi hành chính sách đối ngoại tích cực: kí với Liên Xô “Hiệp ước hữu nghị, đồng minh và tương trợ Trung - Xô” ngày 14 - 2 - 1950, giúp nhân dân Triều Tiên chống Mĩ (1950 - 1953), giúp nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, tham gia hội nghị Băng Đung (1955).

Từ năm 1959, Trung Quốc lâm vào tình trạng đầy biến động và kéo dài tới 20 năm (1959 - 1978).

Biểu hiện:

+ Về đối nội: việc đề ra đường lối “ba ngọn cờ hồng” của Chủ tịch Mao Trạch Đông vào năm 1958 với ý định nhanh chóng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội đã mắc nhiều sai lầm, không đạt hiệu quả, làm cho nền kinh tế Trung Quốc trở nên hỗn loạn, sản xuất giảm sút, đời sống nhân dân điêu đứng, nạn đói xảy ra liên miên ở khắp nơi.

+ Những khó khăn về kinh tế đã dẫn đến những biến động về chính trị. Trong nội bộ lãnh đạo Trung Quốc xảy ra những bất đồng gay gắt về đường lối xây dựng CNXH, và sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái, đỉnh cao là cuộc “Đại cách mạng văn hóa vô sản” (1966 - 1976)... để lại những hậu quả cực kì nghiêm trọng về mọi mặt.

+ Về đối ngoại: ban đầu Trung Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược của nhân dân Việt Nam, cũng như cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi, Mĩ Latinh. Về sau, giới lãnh đạo Trung Quốc thi hành một số chính sách đối ngoại bất lợi cho cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới, như: xung đột biên giới với Ấn Độ (1962) và Liên Xô (1969). Tháng 2 - 1972, Tổng thống Mĩ Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở đầu cho quan hệ hòa dịu giữa hai nước.

- Công cuộc cải cách - mở cửa (từ năm 1978)

Sau 20 năm hỗn loạn đau thương, trực tiếp là đường lối sai lầm của "ba ngọn cờ hồng" và "Đại cách mạng văn hoá vô sản", Trung Quốc đứng trước khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội. Để nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng, tháng 12 - 1978, Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra đường lối mới, do Đặng Tiểu Bình khởi xướng. Đây được coi là mốc mở đầu cho công cuộc cải cách kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Qua Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ XII (9 - 1982) và đặc biệt là Đại hội lần thứ XIII (10 - 1987), đường lối này được nâng lên thành đường lối chung của Đảng và Nhà nước Trung Hoa.

Nội dung đường lối: Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm; Tiến hành cải cách và mở cửa; Chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường XHCN linh hoạt hơn, nhằm hiện đại hóa đất nước; Kiên trì 4 nguyên tắc cơ bản (con đường CNXH, chuyên chính dân chủ nhân dân, Đảng Cộng sản lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông và lí luận Đặng Tiểu Bình làm nền tảng).

Mục tiêu của công cuộc cải cách - mở cửa là biến Trung Quốc trở thành một quốc gia giàu mạnh, dân chủ và văn minh.

Sau 20 năm tiến hành cải cách và mở cửa (1978 - 1998), đất nước Trung Quốc có nhiều chuyển biến căn bản:

Về kinh tế, GDP tăng trung bình hằng năm 8%. Năm 2000, GDP đạt 1.080 tỉ USD, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện.

Về khoa học - kĩ thuật, tháng 10 - 2003, Trung Quốc phóng thành công con tàu “Thần Châu 5”, đưa nhà du hành vũ trụ Dương Lợi Vĩ bay vào không gian vũ trụ. Với sự kiện này, Trung Quốc trở thành nước thứ 3 (sau Nga và Mĩ) có người cùng con tàu bay vào vũ trụ.

Về đối ngoại: Trung Quốc có nhiều thay đổi theo hướng hòa dịu: năm 1979 Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mĩ; từ những năm 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc bình thường hóa quan hệ với Liên Xô, Việt Nam, Mông Cổ, khôi phục quan hệ ngoại giao với Inđônêxia,... Trung Quốc có nhiều đóng góp trong giải quyết tranh chấp quốc tế.

Bán đảo Triều Tiên

- Sự ra đời của hai Nhà nước trên bán đảo Triều Tiên.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, theo thỏa thuận của Hội nghị Ianta (2 - 1945), bán đảo Triều Tiên bị chia thành hai miền, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới tạm thời: quân đội Liên Xô sẽ đóng ở phía Bắc Triều Tiên, còn phía Nam là quân đội Mĩ. Nhưng trong bối cảnh “chiến tranh lạnh” việc thành lập chính phủ chung giữa hai miền không được thực hiện. Tháng 8 - 1948, Mĩ giúp đỡ miền Nam thành lập Nhà nước Đại Hàn Dân Quốc, xây dựng đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Ở miền Bắc, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng được thành lập ngay sau đó (9 - 1948), đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Cuối năm 1948, quân đội Liên Xô rút khỏi miền Bắc, một năm sau Mĩ cũng rút quân khỏi miền Nam. Tuy nhiên, không lâu sau, cuộc chiến tranh giữa hai miền trên bán đảo Triều Tiên bùng nổ, kéo dài từ năm 1950 đến 1953, trong đó miền Nam có sự giúp đỡ của Mĩ và miền Bắc có sự giúp đỡ của quân chí nguyện Trung Quốc.

Ngày 27 - 7 - 1953, Hiệp định đình chiến được kí kết giữa hai miền Nam - Bắc, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới quân sự. Chiến tranh chấm dứt, hai miền bước vào thời kì hòa bình, xây dựng và phát triển.

- Quan hệ giữa hai miền Nam - Bắc trên bán đảo Triều Tiên.

Sau chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), tình hình hai miền Nam - Bắc Triều Tiên luôn trong tình trạng đối đầu căng thẳng. Từ những năm 70, quan hệ giữa hai miền có sự thay đổi, hòa dịu dần, chuyển sang đối thoại. Từ năm 1990 trở đi, quan hệ giữa hai miền Triều Tiên có bước đột phá mới. Sau nhiều cuộc gặp gỡ, các nhà lãnh đạo của hai bên đã đi đến nhất trí: “xóa bỏ tình trạng đối lập về chính trị và quân sự giữa hai miền Nam - Bắc, tiến hành giao lưu và hợp tác nhiều mặt”. Ngày 13 - 6 - 2000, hai nhà lãnh đạo cao nhất là Tổng thống Kim Tê Chung (Hàn Quốc) và Chủ tịch Kim Châng In (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên) đã gặp gỡ ở Bình Nhưỡng và kí hiệp định hòa hợp giữa hai quốc gia, mở ra một trang sử mới trong quan hệ giữa hai miền. Tuy nhiên, quá trình hòa hợp và thống nhất bán đảo Triều Tiên còn lâu dài, khó khăn và phức tạp.

Sự thành lập các quốc gia độc lập ở Đông Nam Á sau Chiến tranh Thế giới thứ hai

- Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, hầu hết các nước Đông Nam Á (trừ Thái Lan) đều là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh, nhân dân các nước Đông Nam Á đã nổi dậy giành chính quyền, nhiều nước đã giành được độc lập: Inđônêxia (8 - 1945), Việt Nam (9 - 1945) và Lào (10 - 1945).

- Ngay sau đó, các nước thực dân phương Tây tái chiếm trở lại các nước vốn trước đây là thuộc địa: Tới giữa những năm 50, nhiều nước trong khu vực đã giành được độc lập (Philippin, năm 1946; Miến Điện, năm 1948; Inđônêxia, năm 1950; Mã Lai, năm 1957 và quyền tự trị của Xingapo, năm 1959; riêng Brunây đến tháng 1 - 1984 mới tuyên bố độc lập).

- Tháng 7 - 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ba nước Đông Dương giành thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, các nước tham dự hội nghị cam kết phải công nhận nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia. Tuy nhiên, ba nước Đông Dương lại phải tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, đến năm 1975 thì giành được thắng lợi hoàn toàn.

- Năm 2002, quốc gia thứ 11 ở Đông Nam Á được ra đời là Đông Timo, dựa trên kết quả trưng cầu dân ý tách ra khỏi Inđônêxia. Hiện nay, khu vực Đông Nam Á có 11 quốc gia: Philippin, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Mianma, Brunây, Malaixia, Xingapo, Inđônêxia và Đông Timo.

Lào

- Giai đoạn 1946 - 1954: Kháng chiến chống thực dân Pháp

Nhân cơ hội phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh, từ ngày 23 - 8 - 1945 nhân dân các bộ tộc Lào đã tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 12 - 10 - 1945, nước Lào tuyên bố độc lập.

Tháng 3 - 1946, thực dân Pháp trở lại xâm lược Lào. Nhân dân Lào một lần nữa phải cầm súng kháng chiến bảo vệ nền độc lập. Ngày 20 - 1 - 1949, quân giải phóng Latxavông được thành lập, do Cayxỏn Phomvihẳn chỉ huy. Năm 1950, Mặt trận Lào tự do Itxala và Chính phủ lâm thời được thành lập do Xuphanuvông đứng đầu mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến.

Trong những năm 1953 - 1954, bộ đội Việt Nam phối hợp với quân dân Lào mở các chiến dịch Trung Lào, Thượng Lào và Hạ Lào, giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Vùng căn cứ giải phóng của Lào không ngừng được mở rộng, tạo ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân Lào.

Sau thất bại ở Điện Biên Phủ (Việt Nam), thực dân Pháp kí Hiệp định Giơnevơ (7 - 1954), công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Lào. Lực lượng kháng chiến tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phongxalì.

- Giai đoạn 1954 - 1975: Kháng chiến chống Mĩ.

Sau Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (1954), Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Lào. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào (thành lập tháng 3 - 1955), cuộc đấu tranh chống Mĩ cứu nước của nhân dân Lào được tiến hành trên cả 3 mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao. Đến đầu những năm 1960, vùng giải phóng đã chiếm 2/3 diện tích và 1/3 dân số. Năm 1964, Mĩ tiến hành chiến lược Chiến tranh đặc biệt, đến 1969 nâng lên thành Chiến tranh đặc biệt tăng cường. Tuy nhiên, quân và dân Lào đã lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của Mĩ. Đến đầu những năm 70, vùng giải phóng đã mở rộng với 4/5 lãnh thổ. Bị thất bại nặng nề, ngày 21 - 2 - 1973, Mĩ phải kí Hiệp định Viêng Chăn rút quân về nước, lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào. Chính phủ liên hiệp dân tộc lâm thời được thành lập.

Từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1975, được sự cổ vũ của chiến thắng Xuân 1975 ở Việt Nam, quân dân Lào nổi dậy giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2 - 12 - 1975, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào chính thức được thành lập, mở ra kỉ nguyên xây dựng và phát triển của đất nước Triệu Voi.

Campuchia

- Giai đoạn 1945 - 1954: Kháng chiến chống Pháp.

Tháng 10 - 1945: thực dân Pháp xâm lược trở lại và thống trị Campuchia. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (từ 1951 là Đảng nhân dân cách mạng Campuchia), cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được những thắng lợi ngày càng to lớn. Tháng 4 - 1950, Mặt trận dân tộc thống nhất và Uỷ ban dân tộc giải phóng lâm thời được thành lập, do Sơn Ngọc Minh làm Chủ tịch. Tháng 6 - 1951, quân đội cách mạng Itxarắc ra đời.

Do hoạt động ngoại giao khôn khéo của Quốc vương N. Xihanuc, thực dân Pháp đã kí Hiệp ước “trao trả độc lập cho Campuchia” (11 - 1953), song quân đội Pháp vẫn chiếm đóng đất nước này. Do thất bại ở Điện Biên Phủ (Việt Nam), Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ (7 - 1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia.

- Giai đoạn 1954 - 1970: Chính phủ Xihanúc thực hiện đường lối hòa bình, trung lập, không tham gia bất cứ một khối liên minh quân sự hoặc chính trị nào, tiếp nhận viện trợ từ mọi phía, không có điều kiện ràng buộc.

- Giai đoạn 1970 - 1975: Kháng chiến chống Mĩ.

+ Ngày 18 - 3 - 1970, chính phủ Xihanúc bị thế lực tay sai Mĩ lật đổ.

+ Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước được tiến hành: Tháng 9 - 1973, lực lượng vũ trang Campuchia chuyển sang tấn công, bao vây thủ đô và các thành phố khác, đến ngày 17 - 4 - 1975 thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ.

- Giai đoạn 1975 - 1979

+ Tập đoàn Pôn Pốt phản bội cách mạng, tiến hành chế độ diệt chủng ngay sau cuộc kháng chiến chống Mĩ thắng lợi. Nhân dân Campuchia lại phải tiến hành cuộc đấu tranh lật đổ chế độ Khơme đỏ, giành thắng lợi vào tháng 1 - 1979.

+ Từ năm 1979, cuộc nội chiến diễn ra giữa lực lượng của Đảng Nhân dân Cách mạng với các phe phái đối lập, chủ yếu là Khơme đỏ, kéo dài hơn một thập kỉ. Cuối cùng các bên ở Campuchia đã đi tới hòa giải, hòa hợp dân tộc với sự giúp đỡ của quốc tế. Ngày 23 - 10 - 1991, Hiệp định hoà bình về Campuchia được kí kết tại Pari.

Sau cuộc tổng tuyển cử tự do, tháng 9 - 1993 Quốc hội mới được bầu, Hiến pháp mới ra đời, Vương quốc Campuchia được tái lập do Xihanuc làm Quốc vương. Tình hình Campuchia dần dần đi vào ổn định và phát triển.

Inđônêxia

Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh, ngày 17 - 8 - 1945, lãnh tụ của Đảng Quốc dân (đảng của tư sản dân tộc) Xucácnô đã đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Inđônêxia. Ngày 18 - 8, đại diện của các Đảng phái chính trị đã mở hội nghị trù bị độc lập tuyên bố thành lập Cộng hoà Inđônêxia, thông qua Hiến pháp, bầu Xucácnô làm Tổng thống.

Nhưng sau đó, tháng 11 - 1945, thực dân Hà Lan trở lại xâm lược Inđônêxia. Cuộc kháng chiến bùng nổ. Tháng 11 - 1949, Hiệp định La Hay đã ghi nhận sự thành lập liên hiệp Hà Lan - Inđônêxia. Theo hiệp định này, Inđônêxia nằm trong khối liên hiệp và bị lệ thuộc về nhiều mặt.

Trước sự đấu tranh của nhân dân, ngày 15 - 8 - 1950, nước Cộng hoà Inđônêxia thống nhất ra đời. Từ năm 1953, chính phủ của Đảng quốc dân do Xucácnô đứng đầu thi hành các chính sách đối nội, đối ngoại tiến bộ như phế bỏ phái đoàn cố vấn quân sự Hà Lan (1953), huỷ bỏ Hiệp ước LaHay (1956), thu hồi miền Tây Irian (1963), thực hiện rộng rãi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.

Từ năm 1967, Xuháctô lên làm Tổng thống, tình hình chính trị dần dần đi vào ổn định, bước vào quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục. Năm 1997, châu Á diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, Inđônêxia cũng lâm vào tình trạng rối loạn.

Từ năm 2001, kinh tế đất nước Inđônêxia dần dần được phục hồi, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn chồng chất, do hoạt động của chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa li khai, các thiên tai liên tiếp xảy ra (sóng thần, núi lửa, lũ lụt,...).

Quá trình xây dựng và phát triển của các nước Đông Nam Á

- Nhóm 5 nước sáng lập ASEAN (Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Thái Lan, Xingapo).

Sau khi được độc lập, các nước sáng lập ASEAN phát triển theo 2 chiến lược:

Từ những năm 50 - 60 của thế kỉ XX, các nước áp dụng chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (chiến lược phát triển kinh tế theo hướng nội) nhằm xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng nền kinh tế tự chủ. Nội dung chủ yếu là đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa thay thế nhập khẩu, lấy thị trường trong nước làm chỗ dựa để phát triển sản xuất,...

Kết quả, các nước đã đạt được một số thành tựu bước đầu về kinh tế - xã hội, như hạn chế được nạn thất nghiệp, tự túc được một phần lương thực, tăng thu nhập quốc dân cho người dân (thu nhập quốc dân của Thái Lan trong những năm 1961 - 1966 tăng 7,6%, dự trữ vàng và ngoại tệ tăng 15%; Malaixia cũng tự túc được lương thực cho miền Tây,...). Tuy vậy, chiến lược phát triển hướng nội của các nước cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, tệ quan liêu và tham nhũng, chưa giải quyết được mối quan hệ giữa tăng trưởng với công bằng xã hội,...

Để khắc phục những hạn chế của phát triển kinh tế theo hướng nội, từ những năm 60 - 70 của thế kỉ XX, nhóm 5 nước sáng lập ASEAN chuyển sang chiến lược công nghiệp hóa lấy xuất khẩu làm chủ đạo (chiến lược phát triển kinh tế theo hướng ngoại), thực hiện việc “mở cửa” nền kinh tế, thu hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và phát triển ngoại thương.

Kết quả, nền kinh tế - xã hội các nước có nhiều sự chuyển biến tích cực, tỉ trọng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân cao hơn nông nghiệp, mậu dịch và đối ngoại tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1980, tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm nước này đạt tới 130 tỉ USD, chiếm 14% tổng kim ngạch ngoại thương của các quốc gia và khu vực đang phát triển. Vấn đề tăng trưởng và công bằng xã hội đã được chú trọng giải quyết. Riêng Xingapo trong giai đoạn 1966 - 1973 có tốc độ tăng trưởng 12%/năm, trở thành “con rồng” nổi trội nhất trong bốn “con rồng” kinh tế châu Á (cùng với Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông).

Tuy nhiên, khi phát triển theo chiến lược này, nhóm 5 nước sáng lập ASEAN cũng gặp khó khăn, như phụ thuộc vào vốn và thị trường bên ngoài, tính ổn định không cao, biểu hiện rõ nhất là cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 - 1998. Sau vài năm khắc phục, kinh tế các nước dần dần phục hồi và tiếp tục phát triển.

- Nhóm 3 nước Đông Dương

Từ 1975 đến giữa thập kỉ 80, do hậu quả chiến tranh lâu dài, lại bị Mĩ bao vây, cấm vận về kinh tế, sự chống phá của kẻ thù, do duy trì quá lâu mô hình tập trung bao cấp,... nên nền kinh tế của ba nước Đông Dương gặp nhiều khó khăn. Từ nửa cuối những năm 80, các nước Đông Dương tiến hành mở cửa, đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nhờ đó, các nước Đông Dương bắt đầu có bước phát triển nhanh chóng. Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực đã có tích lũy và xuất khẩu lúa gạo lớn thứ hai thế giới (sau Thái Lan). Năm 2000, kinh tế Lào tăng trưởng 5.7%; Năm 1995, Campuchia có sản lượng công nghiệp tăng 7%,...

- Các nước Đông Nam Á khác (Mianma, Brunây, Đông Timo)

+ Ở Mianma, do chính quyền nằm trong lực lượng quân đội nên nền kinh tế mang tính tập trung cao độ. Từ cuối những năm 90, Mianma mới tiến hành đổi mới nhưng cũng gặp nhiều khó khăn.

+ Brunây được trao trả độc lập vào đầu năm 1984. Nền kinh tế chủ yếu nhờ bán dầu mỏ, lương thực, thực phẩm phải nhập khẩu.

+ Đông Timo mới tách khỏi Inđônêxia (2002), nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.

Sự ra đời và phát triển của tổ chức ASEAN

Những nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của tổ chức ASEAN

+ Nhiều nước Đông Nam Á có nhu cầu thành lập một tổ chức liên minh khu vực, nhằm cùng nhau hợp tác, đưa nền kinh tế khu vực phát triển đi lên.

+ Chống lại âm mưu và ảnh hưởng của các nước lớn, hạn chế ảnh hưởng của bên ngoài.

+ Trên thế giới xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang mở rộng, nhất là sự ra đời và họat động có hiệu quả của khối thị trường chung châu Âu (EC) đã cổ vũ các nước Đông Nam Á tìm cách liên kết lại với nhau.

- Sự thành lập: ngày 8 - 8 - 1967, năm nước gồm Thái Lan, Malaixia, Xingapo, Philippin, Inđônêxia đã họp tại Băng Cốc (Thái Lan) ra tuyên bố thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, viết tắt là ASEAN. Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế văn hóa thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.

- Quá trình hoạt động của ASEAN

+ Thời kì đầu từ năm 1967 đến năm 1975, ASEAN là một tổ chức khu vực lỏng lẻo, vai trò còn mờ nhạt, chưa có ảnh hưởng lớn ra bên ngoài, chủ yếu là một liên minh về chính trị.

+ Từ sau Hội nghị cấp cao Bali (2 - 1976) vai trò của ASEAN được tăng cường. Các nước đã kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác, còn gọi là Hiệp ước Bali, xác định nguyên tắc hoạt động cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Từ đầu thập kỉ 80, nền kinh tế của các nước ASEAN bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Số thành viên ngày càng mở rộng: Năm 1984, Brunây gia nhập ASEAN, thành viên thứ 6 của tổ chức này. Ngày 28 - 7 - 1995 Việt Nam được chính thức kết nạp, là thành viên thứ 7 của ASEAN. Tháng 7 - 1997, Lào và Mianma gia nhập ASEAN. Đến tháng 4 - 1999, Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, đánh dấu bước ngoặt về lịch sử phát triển của tổ chức này, từ ASEAN 5 đến ASEAN 10.

Hiện nay, tổ chức ASEAN gồm 10 nước, có vai trò ngày càng to lớn trong khu vực và trên thế giới. Năm 1992, các nước đã kí Hiệp ước thành lập khu vực mậu dịch tự do (AFTA). Năm 1993, ASEAN cùng với một loạt nước ở châu Á - Thái Bình Dương kí Hiệp ước thành lập diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). Năm 1996, diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) ra đời. Tại hội nghị cấp cao lần thứ 13 (tháng 11 - 2007), các nước kí Hiến chương ASEAN, tiến tới xây dựng một cộng đồng ASEAN lớn mạnh về mọi mặt. Đây được coi là một chương mới đã mở ra cho các nước Đông Nam Á.

- Về quan hệ Việt Nam - ASEAN. Từ khi thành lập đến giữa thập niên 80, quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN có sự bất đồng, căng thẳng do sự dính líu của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và sau đó là vấn đề Campuchia. Từ năm 1990, sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết, quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN trở lại hòa dịu. Năm 1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali, trở thành quan sát viên của tổ chức ASEAN. Từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN (1995) tới nay, quan hệ ASEAN - Việt Nam luôn tốt đẹp trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Ấn Độ

- Cuộc đấu tranh giành độc lập ở Ấn Độ (1945 - 1950)

Sau năm 1945, cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ bùng lên mạnh mẽ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại. Chỉ trong năm 1946 đã có 848 cuộc bãi công, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa nổ ra ngày 19 - 2 - 1946 của 2 vạn thuỷ binh ở cảng Bom Bay với khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Anh”, “Cách mạng muôn năm”.

Ngày 22 - 2 - 1946, khoảng 20 vạn nhân dân Bombay đã xuống đường đấu tranh ủng hộ thuỷ binh rồi phát triển thành cuộc khởi nghĩa kéo dài ba ngày.

+ Các cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Ấn Độ diễn ra trên quy mô rộng lớn vào các năm 1945 - 1947 buộc thực dân Anh phải nhượng bộ và hứa trao trả quyền tự trị cho Ấn Độ.

+ Chính quyền thực dân Anh đã hứa đưa ra phương án Maobáttơn, nghĩa là Ấn Độ bị chia thành hai nước tự trị dựa trên cơ sở tôn giáo: Ấn Độ của người theo Ấn Độ giáo và Pakixtan của những người theo Hồi giáo. Trên cơ sở thỏa thuận với hai Đảng Quốc đại và Liên đoàn Hồi giáo, ngày 15 - 8 - 1947 Ấn Độ bị tách thành hai quốc gia Ấn Độ và Pakixtan.

+ Đến những năm 1948 - 1950, nhân dân Ấn Độ đấu tranh đã buộc thực dân Anh phải công nhận độc lập cho họ. Ngày 26 - 1 - 1950, Ấn Độ tuyên bố độc lập và nước Cộng hòa Ấn Độ được thành lập.

+ Sự thành lập nước Cộng hòa Ấn Độ đánh dấu thắng lợi to lớn của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại do M.Ganđi và G.Nêru đứng đầu, có ảnh hưởng to lớn đến phong trào giải phóng dân tộc thế giới.

- Công cuộc xây dựng đất nước

Sau khi tuyên bố độc lập (26 - 1 - 1950), dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại, Ấn Độ đã bước vào thời kì xây dựng đất nước và đạt được nhiều thành tựu lớn.

+ Về nông nghiệp: Ấn Độ thực hiện các kế hoạch dài hạn nhằm phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa. Nhờ thành tựu của cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp, đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX, Ấn Độ đã tự túc được lương thực cho gần 1 tỉ người và bắt đầu xuất khẩu gạo.

+ Về công nghiệp: Qua nhiều kế hoạch 5 năm, tốc độ tăng trưởng trung bình về công nghiệp của Ấn Độ đạt 5%/năm. Ấn Độ đã chế tạo được máy móc, thiết bị ngành dệt, hóa chất, máy bay, tàu thủy, đầu máy xe lửa, ti vi màu, máy vi tính,... Nhiều nhà máy điện (nhiệt điện, điện nguyên tử, thủy điện,...) liên tục được xây dựng, đảm bảo nhu cầu về điện cho người dân sinh hoạt và phát triển kinh tế. Đến những năm 80 của thế kỉ XX, Ấn Độ trở thành nước công nghiệp đứng thứ 10 thế giới.

+ Về khoa học - kĩ thuật, văn hóa, giáo dục cũng đạt nhiều thành tựu rực rỡ. Năm 1974, Ấn Độ thử thành công bom nguyên tử; đến năm 1975, phóng thành công vệ tinh nhân tạo lên quỹ đạo Trái Đất bằng tên lửa đẩy của mình. Năm 1996, với việc phóng thành công vệ tinh địa tĩnh, Ấn Độ trở thành một trong 6 nước (cùng với Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc) có khả năng phóng vệ tinh lên vũ trụ. Nhờ thực hiện cuộc “cách mạng chất xám”, Ấn Độ trở thành một trong những cường quốc sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới.

Trong chính sách đối ngoại, Ấn Độ theo đuổi chính sách hòa bình, trung lập tích cực, ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc, là một trong những nước sáng lập phong trào không liên kết. Vị thế của Ấn Độ ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Ngày 7 - 1 - 1972, Ấn Độ chính thức đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Các nước châu Phi

Từ năm 1945 đến năm 1954, phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ sớm nhất ở Bắc Phi, tiêu biểu là cuộc chính biến của sĩ quan và binh lính yêu nước ở Ai Cập (ngày 3 - 7 - 1952). Kết quả, Vương triều Pharúc - chỗ dựa của nền thống trị của thực dân Anh bị lật đổ, nước Cộng hoà Ai Cập được thành lập (18 - 6 - 1953).

Hàng loạt cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân châu Phi diễn ra, nhiều nước đã giành được độc lập như: Angiêri (11 - 1954), Tuynidi, Marốc và Xuđăng (1956), Gana (1957), Ghinê (1958),...

Từ năm 1960 đến năm 1975, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân ở châu Phi bùng nổ ngày càng mạnh mẽ. Kết quả, năm 1960 có tới 17 nước châu Phi giành được độc lập, được lịch sử gọi là “Năm châu Phi” mở đầu cho giai đoạn mới của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu lục này: nhiều nước đã giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống thực dân, thành lập nhà nước mới như: Angiêri (7 - 1962), Êtiôpia (1974), Môdămbích (1975), Ănggôla (1975). Thắng lợi của nhân dân Môdăm bích và Ănggôla đánh đuổi thực dân Bồ Đào Nha về cơ bản đã chấm dứt sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.

- Từ sau năm 1975, châu Phi hoàn thành cuộc đấu tranh đánh đổ nền thống trị thực dân cũ, giành độc lập dân tộc, được đánh dấu bằng sự ra đời của nước cộng hoà Namibia (3 - 1991), sau đó các nước bước vào quá trình xây dựng đất nước. Đặc biệt, năm 1993, tại Nam Phi đã chính thức xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc (chủ nghĩa Apácthai). Tháng 4 - 1994, cuộc tổng tuyển cử tự do đã diễn ra và N. Manđêla trở thành Tổng thống người da đen đầu tiên của Cộng hòa Nam Phi. Đây là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân.

- Sau khi giành được độc lập, các nước châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội và đã thu được thành tựu bước đầu. Tuy nhiên, nhiều nước châu Phi vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và không ổn định do xung đột về sắc tộc, tôn giáo, nội chiến, dịch bệnh, đói ăn và mù chữ. Năm 2002, Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU) đổi tên thành Liên minh châu Phi (AU) với hi vọng khắc phục các khó khăn và tạo điều kiện thực hiện các chương trình phát triển của châu lục.

Các nước Mĩ Latinh

- Sau chiến tranh, phong trào giải phóng dân tộc ở Mĩ Latinh phát triển mạnh mẽ, được coi là “Lục địa bùng cháy”.

Từ năm 1945 đến năm 1959, cao trào đấu tranh bùng nổ ở khắp các nước Mĩ Latinh với nhiều hình thức như bãi công, mít tinh, biểu tình, khởi nghĩa vũ trang,... nhưng chưa nước nào giành được thắng lợi.

Từ năm 1959 đến những năm 80 của thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh được mở đầu bằng thắng lợi của cách mạng Cuba dưới sự lãnh đạo của Phiđen Cátxtơrô. Ngày 1 - 1 - 1959, nước Cộng hòa Cuba ra đời, do Phiđen Cátxtơrô làm Chủ tịch. Phong trào đấu tranh giành và giữ độc lập đã lan ra khắp khu vực, trở thành cơn bão táp cách mạng với nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, song chủ yếu là đấu tranh vũ trang. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giành độc lập ở giai đoạn này là Bôlivia, Vênêxuêla, Côlômbia, Nicaragoa, Pêru,... Ở Chilê, tháng 5 - 1970, Chính phủ của Liên minh đoàn kết nhân dân do Tổng thống Agienđê lãnh đạo đã giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, thực hiện nhiều chính sách cải cách tiến bộ, củng cố độc lập chủ quyền dân tộc trong những năm 1970 - 1973. Cuộc đấu tranh của nhân dân Nicaragoa dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Xanđinô cũng giành thắng lợi vào năm 1979.

- Từ những năm 80 đến những năm 90 của thế kỉ XX, các nước Mĩ Latinh bước vào thời kì khôi phục độc lập, chủ quyền và xây dựng đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay nhiều nước vẫn gặp khó khăn, đặc biệt là chính sách can thiệp của Mĩ. Do những biến động ở Liên Xô và Đông Âu không có lợi cho phong trào cách mạng thế giới, Mĩ đã tăng cường ảnh hưởng của mình để chống lại cách mạng ở Mĩ Latinh như đe dọa cách mạng Nicaragoa, Vênêzuêla và cấm vận kinh tế kéo dài đối với Cuba,...

- Một số nước Mĩ Latinh đã trở thành nước công nghiệp mới (NICs), như Braxin, Mêhicô, Achentina. Ở Cuba, chính phủ do Phiđen Cátxtơrô đứng đầu đã tiến hành các cải cách dân chủ (cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa xí nghiệp tư bản nước ngoài,...). Cuba đã xây dựng nền công nghiệp dân tộc và nền nông nghiệp nhiều sản phẩm đa dạng và đạt nhiều thành tựu cao trong giáo dục, y tế, thể thao,... Tuy nhiên, nền kinh tế của nhiều nước Mĩ Latinh hiện còn khó khăn, như lạm phát, nợ nước ngoài, tham nhũng, cùng những biến động của kinh tế thế giới và khu vực.