Chương chín: Việt Nam từ năm 1945 - 1954
Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
a) Thuận lợi:
- Nhân dân ta đã giành quyền làm chủ, bước đầu được hưởng quyền lợi do chính quyền cách mạng đưa lại nên rất phấn khởi, gắn bó với chế độ.
- Cách mạng nước ta có Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lãnh đạo.
- Trên thế giới, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.
b) Khó khăn: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách.
- Quân đội các nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật đã lũ lượt kéo vào nước ta:
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào nước ta. Theo sau chúng là bọn tay sai phản động của tổ chức Việt Quốc, Việt Cách về nước hòng cướp chính quyền của ta.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều kiện cho thực dân Pháp trở lại xâm lược. Lợi dụng tình hình đó, bọn phản động trong nước ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng.
- Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang còn non yếu. Hậu quả của nạn đói cuối năm 1944 - đầu năm 1945 chưa khắc phục được. Tiếp đó là nạn lũ lụt, hạn hán liên tiếp xảy ra. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.
- Ngân sách Nhà nước trống rỗng. Chính quyền cách mạng chưa quản lí được ngân hàng Đông Dương. Trong khi đó, quân Trung Hoa Dân quốc lại tung ra thị trường các loại tiền Trung Quốc đã mất giá làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.
- Tàn dư văn hóa lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại còn hết sức nặng nề, hơn 90% số dân không biết chữ.
Tất cả những khó khăn trên đặt đất nước ta vào tình trạng hết sức khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc”, trong đó nguy hiểm nhất là những khó khăn do kẻ thù của cách mạng gây ra nhằm thủ tiêu thành quả của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược Nam Bộ
- Ngày 2 - 9 - 1945, thực dân Pháp nổ súng vào cuộc mít tinh mừng “Ngày độc lập” của nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn.
- Đêm 22 rạng sáng 23 - 9 - 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn nhất tề đứng lên chiến đấu oanh liệt với giặc.
- Từ ngày 5 - 10 - 1945, sau khi có thêm viện binh từ Pháp sang, thực dân Pháp phá vòng vây Sài Gòn - Chợ lớn, mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
- Đảng, Chính phủ và nhân dân miền Bắc tổ chức các “đoàn quân Nam tiến” kịp thời sát cánh cùng với nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ chiến đấu chống cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.
Chủ trương, sách lược của Đảng và Chính phủ cách mạng đối với quân Trung Hoa Dân quốc và bọn phản cách mạng ở phía Bắc
- Trong hoàn cảnh phải đối phó với cuộc xâm lược trở lại của thực dân Pháp ở Nam Bộ, sự uy hiếp của quân Trung Hoa Dân quốc ở Bắc Bộ nhằm lật đổ chính quyền cách mạng, Đảng và Chính phủ đã chủ trương tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, từ đó chủ trương tạm thời hòa hoãn, tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân quốc.
- Sách lược của Đảng: Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai. Vì vậy, tại kì họp của Quốc hội khóa I (2 - 3 - 1946), ta đồng ý nhường cho tay sai 70 ghế trong Quốc hội cùng 4 ghế trong Chính phủ liên hiệp, cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước, cho Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi kinh tế như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, nhận tiêu tiền Trung Quốc đã mất giá.
- Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai của quân Trung Hoa Dân quốc, chính quyền cách mạng kiên quyết vạch trần âm mưu và những hành động chia rẽ, phá hoại của chúng. Những kẻ phá hoại nếu có đủ bằng chứng thì kiên quyết trừng trị theo pháp luật, Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng.
Chủ trương, sách lược của Đảng và Chính phủ cách mạng đối với thực dân Pháp
Ngày 3 - 3 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa chọn giải pháp “hòa để tiến”.
Ngày 6 - 3 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ tại Hà Nội.
- Nội dung Hiệp định:
+ Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có Chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng.
+ Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15 000 quân Pháp ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật trong thời hạn 5 năm.
+ Hai bên ngừng mọi xung đột ở phía Nam và giữ nguyên quân đội của mình tại vị trí cũ, tạo không khí thuận lợi đi đến cuộc đàm phán chính thức.
- Ý nghĩa của việc kí kết Hiệp định Sơ bộ.
Ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai khỏi nước ta, có thêm thời gian hòa bình quý báu để củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài.
Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính
- Xây dựng chính quyền cách mạng: Chỉ một tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chính phủ lâm thời công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước. Ngày 8 - 1 - 1946, vượt qua sự chống phá của kẻ thù, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu bầu Quốc hội. Sau đó, các nơi ở Bắc Bộ và Trung Bộ tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, xã). Uỷ ban hành chính các cấp được thành lập.
Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào ngày 9 - 11 - 1946.
Lực lượng vũ trang được chú trọng xây dựng. Cuối năm 1945, lực lượng dân quân tự vệ trong khắp cả nước đã tăng lên hàng chục vạn người.
- Giải quyết nạn đói: Chính phủ đề ra nhiều biện pháp cấp thời như tổ chức quyên góp, điều hoà thóc gạo giữa các địa phương trong cả nước. Nhân dân lập “hũ gạo cứu đói”, tổ chức “ngày đồng tâm”..., đẩy mạnh tăng gia sản xuất, coi đây là biện pháp hàng đầu có tính chất lâu dài để giải quyết nạn đói.
Chính quyền cách mạng ra lệnh bãi bỏ thuế thân và các thứ vô lí khác của chế độ cũ, giảm tô 25%, giảm thuế ruộng đất 20%, tạm cấp ruộng đất bỏ hoang cho nông dân thiếu ruộng. Sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói từng bước được đẩy lùi.
- Giải quyết nạn dốt: Ngày 8 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ và kêu gọi toàn dân tham gia phong trào xoá nạn mù chữ. Chỉ trong vòng một năm, toàn quốc đã xoá mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Trường học các cấp phổ thông sớm được khai giảng. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu đổi mới theo tinh thần dân tộc, dân chủ.
- Giải quyết khó khăn về tài chính: Chính phủ kêu gọi nhân dân đóng góp vào việc xây dựng "Quỹ độc lập” và phong trào "Tuần lễ vàng”. Chỉ một thời gian ngắn đã thu được 370 kg vàng và 20 triệu đồng tiền Đông Dương. Quốc hội còn quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước.
Tất cả những biện pháp trên đã giúp đất nước ta vượt qua những khó khăn to lớn, củng cố và tăng cường sức mạnh của chính quyền nhà nước, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.
Kết quả đạt được thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, cổ vũ nhân dân ta quyết tâm bảo vệ chính quyền, bảo vệ độc lập tự do vừa giành được.
Đây là sự chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho toàn dân tiến tới cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6 - 3 - 1946 và Tạm ước 14 - 9 - 1946, thực dân Pháp tìm cách phá hoại những điều đã cam kết: Tấn công các cơ quan cách mạng, vùng tự do của ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đánh chiếm một số vị trí quan trọng ở Hải Phòng, nổ súng vào bộ đội ta ở Lạng Sơn, gây nhiều cuộc xung đột vũ trang, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội; gửi tối hậu thư đòi Chính phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì muộn nhất là vào sáng ngày 20 - 12 - 1946, quân Pháp sẽ hành động.
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn con đường cầm vũ khí đứng lên kháng chiến. Đó là sự lựa chọn đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân ta. Sự lựa chọn này còn xuất phát từ thực tế là lúc này những điều kiện tiến hành đấu tranh chính trị ngoại giao với Pháp không còn nữa.
Tối ngày 19 - 12 - 1946, công nhân Nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố mất điện, đó là tín hiệu tấn công, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là tiếng gọi của non sông, đất nước, là mệnh lệnh tiến công kẻ thù, giục giã, soi đường chỉ lối cho mọi người dân Việt Nam đứng lên cứu nước.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh là những văn kiện lịch sử quan trọng về đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng.
- Nội dung của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta là toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế:
+ Kháng chiến toàn dân là việc toàn dân tham gia chiến đấu, chủ yếu là lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích). Đường lối này xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, từ mục đích của cuộc kháng chiến, từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Kháng chiến toàn diện là cuộc kháng chiến diễn ra trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, nhưng chủ yếu và quyết định là mặt trận quân sự.
+ Kháng chiến trường kì ta chỉ hơn địch về tinh thần và có chính nghĩa. Do đó, ta phải chiến đấu lâu dài để có thời gian chuyển hóa lực lượng, làm cho địch yếu dần, ta càng đánh càng mạnh, đến một lúc nào đó ta mạnh hơn địch, tiến lên đánh bại địch.
+ Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế: vì bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải do sự nghiệp của bản thân quần chúng, sự giúp đỡ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ thêm.
Đường lối kháng chiến trên nhằm phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện của dân tộc, khắc phục những nhược điểm của ta về vật chất, kĩ thuật, vừa đánh vừa bồi dưỡng sức ta, làm cho ta càng đánh càng mạnh để cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn. Đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh hơn trong quá trình kháng chiến, đặc biệt là tại Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng (1951).
Cuộc chiến đấu của quân dân ta ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
Tại Hà Nội, cuộc chiến đấu bắt đầu từ 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946 đến ngày 17 - 2 - 1947. Nét nổi bật của cuộc chiến đấu: Nhân dân các đường phố khiêng bàn ghế, giường tủ, hạ cây cối... làm chướng ngại vật; chiến đấu quyết liệt ở Bắc Bộ Phủ, Bưu điện Bờ Hồ, chợ Đồng Xuân, đầu cầu Long Biên, sân bay Bạch Mai, các phố Khâm Thiên, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Da... Trung đoàn Thủ Đô chính thức được thành lập.
Ở các đô thị khác như Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng..., ta đã tiêu diệt nhiều tên địch, đánh lui nhiều đợt tiến công phá vòng vây của địch.
Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã tạo điều kiện cho cả nước đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947
Tháng 3 - 1947, Chính phủ Pháp cử Bolae làm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương thay Đácgiăngliơ, thực hiện kế hoạch tiến công căn cứ địa Việt Bắc nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Chúng huy động hơn 12 000 quân và hầu hết máy bay ở Đông Dương mở cuộc tấn công Việt Bắc từ ngày 7 - 10 - 1947. Việc Pháp tấn công Việt Bắc không nằm ngoài dự đoán của ta. Vì vậy, khi địch vừa tiến công Việt Bắc, Đảng đã có chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của thực dân Pháp”. Trên khắp các mặt trận, quân ta đã từng bước đẩy lùi cuộc tiến công của địch:
- Tại Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông (Bắc Kạn), quân dân ta đã chủ động bao vây, chia cắt, cô lập và tiến công địch; buộc Pháp phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã vào cuối tháng 11 - 1947.
- Ở mặt trận hướng đông: Quân ta phục kích chặn đánh địch trên Đường số 4 tại đèo Bông Lau (30 - 10 - 1947), đánh tan đoàn xe cơ giới của địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng của chúng.
- Ở mặt trận hướng tây: Quân dân ta phục kích đánh địch nhiều trận trên sông Lô ở đoạn Đoan Hùng, Khe Lau, đánh chìm nhiều tàu chiến của địch.
Kết quả: Đại bộ phận quân Pháp rút chạy khỏi Việt Bắc sau hơn hai tháng giao tranh quyết liệt. Ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6 000 tên địch, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến, ca nô, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.
Ý nghĩa: Cơ quan đầu não kháng chiến được an toàn, bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
Cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang một giai đoạn mới. Sau thất bại ở Việt Bắc, Pháp phải thay đổi chiến lược chiến tranh từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh lâu dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950
- Hoàn cảnh mở Chiến dịch Biên giới:
+ Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời (1 - 10 - 1949).
+ Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước (14 - 1 - 1950). Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác lần lượt đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.
+ Mĩ từng bước can thiệp sâu và dính líu trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Pháp thực hiện kế hoạch Rơve, tăng cường hệ thống phòng ngự trên Đường số 4, thiết lập hành lang Đông - Tây (Hải Phòng - Hà Nội - Hoà Bình - Sơn La). Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tiến công Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
+ Ta quyết định mở chiến dịch nhằm tiêu diệt sinh lực địch, mở đường liên lạc với Trung Quốc và thế giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, là sự chủ động tiến công địch đầu tiên của quân đội ta.
- Diễn biến: Ngày 16 - 9 - 1950, ta đánh và chiếm được Đông Khê sau hai ngày chiến đấu, đẩy Pháp ở Thất Khê và Cao Bằng vào thế bị cô lập. Quân Pháp ở Cao Bằng phải rút lui theo Đường số 4. Pháp cho quân từ Thất Khê lên để chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng về. Quân ta mai phục, chặn đánh địch ở nhiều nơi, khiến hai cánh quân này không gặp được nhau. Thất Khê bị uy hiếp, quân Pháp phải rút về Na Sầm, sau đó rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Cánh quân địch hành quân lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh. Quân Pháp hỗn loạn, phải rút chạy. Ngày 22 - 10 - 1950, Đường số 4 được giải phóng.
- Kết quả: Sau hơn 1 tháng chiến đấu, Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi. Ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2 000 địch, giải phóng một vùng biên giới rộng lớn từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, chọc thủng “Hành lang Đông - Tây” của Pháp. Kế hoạch Rơve bị phá vỡ.
- Ý nghĩa: Con đường liên lạc của ta với thế giới được khai thông; quân đội ta trưởng thành, giành được thế chủ động trên chiến trường chính ở Bắc Bộ, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
Hậu phương kháng chiến đã phát triển mọi mặt từ 1951 đến 1952
- Về chính trị:
+ Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng thành công rực rỡ (3 - 1951). Đảng ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam.
+ Hoàn thành thống nhất hai mặt trận Việt Minh và Liên Việt.
+ Thành lập Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào.
+ Phong trào thi đua yêu nước ngày càng lan rộng, Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc đã chọn được 7 anh hùng (5 - 1952).
+ Trung Quốc, Liên Xô và các nước XHCN lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.
- Về kinh tế:
+ Cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm đã đạt được những thành tựu mới: năm 1953, vùng tự do và vùng căn cứ du kích từ Liên khu IV trở ra sản xuất được hơn 2,7 triệu tấn thóc và 65 vạn tấn hoa màu.
+ Thủ công nghiệp và công nghiệp cung cấp công cụ sản xuất và những mặt hàng thiết yếu của đời sống. Năm 1953, ta sản xuất được 3 500 tấn vũ khí, đạn dược.
+ Đề ra những chính sách chấn chỉnh thuế khóa, xây dựng nền tài chính, ngân hàng.
+ Đầu năm 1953, phát động quần chúng triệt để giảm tô, cải cách ruộng đất.
- Về văn hóa, giáo dục và y tế:
+ Tiếp tục công cuộc cải cách giáo dục theo ba phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất; nhà trường gắn với đời sống xã hội. Đến năm 1952, có 1 triệu học sinh phổ thông, phong trào bình dân học vụ đã giúp 14 triệu người thoát nạn mù chữ.
+ Công tác chăm lo sức khỏe cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng.
Những thắng lợi trên chứng tỏ cuộc kháng chiến có bước phát triển mới, tạo điều kiện để ta giành thắng lợi quyết định trong đông - xuân 1953 - 1954 đi đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1954).
Thế chủ động đánh địch trên chiến trường chính Bắc Bộ của quân ta sau Chiến thắng Biên giới thu - đông 1950 đến trước đông - xuân 1953 - 1954
Để giữ vững quyền chủ động đánh địch trên chiến trường chính Bắc Bộ và đẩy địch lùi sâu vào thế bị động đối phó, từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951, quân ta liên tục mở Chiến dịch Trần Hưng Đạo (Chiến dịch Trung du), Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Chiến dịch Đường số 18) và Chiến dịch Quang Trung (Chiến dịch Hà - Nam - Ninh). Đây là những chiến dịch có quy mô lớn của quân ta đánh vào phòng tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực địch, phá vỡ từng mảng kế hoạch bình định của chúng. Nhưng địa bàn ba chiến dịch không có lợi cho ta mà có lợi cho địch, nên kết quả bị hạn chế.
Chiến dịch Hoà Bình đông - xuân (1951 - 1952)
Kết quả và ý nghĩa: Ta đã đánh bại một chiến lược quân sự mới của địch, đẩy địch lùi sâu vào thế phòng ngự bị động về chiến lược, giáng một đòn quan trọng vào chính sách bình định, càn quét ở vùng sau lưng địch và chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” của chúng, là thắng lợi của nghệ thuật chỉ đạo chiến đấu phối hợp giữa chiến trường chính với chiến trường cả nước...
Chiến dịch Tây Bắc thu - đông 1952
Ý nghĩa: Với chiến thắng Tây Bắc, quyền chủ động tiến công về chiến lược của ta tiếp tục được giữ vững và mở rộng. Lực lượng vũ trang của ta càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm chiến đấu, bước đầu làm quen với cách tấn công vào hệ thống cứ điểm mạnh của địch.
Chiến thắng Thượng Lào xuân - hè 1953
Ý nghĩa: Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào càng củng cố vững chắc quyền chủ động chiến lược tiến công của quân và dân ta, không chỉ trên chiến trường miền Bắc Đông Dương. Cục diện chiến tranh Đông Dương đã diễn biến có lợi cho quân dân ba nước Đông Dương, bất lợi cho thực dân Pháp và can thiệp Mĩ.
Âm mưu mới của Pháp - Mĩ ở Đông Dương khi bước vào đông - xuân 1953 - 1954
- Sau 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp ngày càng lâm vào tình thế đầy khó khăn và bất lợi: Nền kinh tế - xã hội Pháp ngày càng gặp nhiều khó khăn.
- Về phía Mĩ, mục tiêu chiến lược của Mĩ ở Đông Dương là hất cẳng Pháp, do đó, sau khi đình chiến ở Triều Tiên, Mĩ đã khẩn trương can thiệp sâu vào Đông Dương, hối thúc thực dân Pháp kéo dài và mở rộng chiến tranh bằng cách viện trợ gấp đôi so với trước, tức chiếm 73% chi phí chiến tranh ở Đông Dương.
- Ngày 7 - 5 - 1953, Pháp cử Nava làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Nava đề ra kế hoạch quân sự với hi vọng trong vòng 18 tháng sẽ giành lấy một thắng lợi quyết định để "kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
Kế hoạch Nava được chia làm hai bước:
+ Bước thứ nhất, thu - đông 1953 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tiến công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Đông Dương, giành lấy nguồn nhân lực, vật lực; xóa bỏ vùng tự do Liên khu V, ra sức mở rộng ngụy quân, tập trung binh lực xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh.
+ Bước thứ hai, từ thu - đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phản với những điều kiện có lợi cho chúng, nhằm kết thúc chiến tranh.
Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954 của quân dân ta
- Trước khi bước vào cuộc Tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954, so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho ta vì lực lượng kháng chiến của ta đã trưởng thành về mọi mặt chính trị, xây dựng hậu phương và chủ động mở liên tiếp các cuộc tiến công địch trên khắp các chiến trường. Đây là điều lí giải tại sao ta có thể chủ động ngay từ đầu trong cuộc Tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954.
- Ở mặt trận chính diện: ta đã chủ động mở các chiến dịch trên những địa bàn trọng yếu, có ý nghĩa chiến lược để phân tán khối quân cơ động của địch tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ (44 tiểu đoàn) thành 5 điểm tập trung: Đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ, Xênô, Luông Phabăng, Plâyku.
- Ở mặt trận vùng sau lưng địch: Phong trào chiến tranh du kích phát triển rất mạnh, dưới nhiều hình thức chiến đấu linh hoạt. Đây là hoạt động phối hợp với mặt trận chính diện rất có hiệu quả, khiến cho địch càng lúng túng bị động.
- Thắng lợi ở mặt trận chính diện và mặt trận vùng sau lưng địch trong cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954 đã tạo điều kiện cho ta giành thắng lợi lớn ở Điện Biên Phủ.
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
- Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược là điều bất ngờ cho cả ta và Pháp - Mĩ. Bởi vì, khi vạch ra kế hoạch Nava, Pháp - Mĩ không ngờ rằng phải quyết chiến ở Điện Biên Phủ. Khi vạch ra kế hoạch tác chiến trong Đông - Xuân 1953 - 1954, ta cũng không nghĩ tới phải quyết chiến ở Điện Biên Phủ.
- Đứng trước những đòn tiến công quyết liệt của quân dân ta, Nava quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh, chấp nhận giao chiến với ta ở Điện Biên Phủ là xuất phát từ nhận định: Điện Biên Phủ đối với ta là quá xa hậu phương, địa hình rừng núi hiểm trở nên tiếp tế sẽ rất khó khăn; ta chỉ có thể sử dụng lực lượng khoảng 1 đại đoàn, không thể sử dụng pháo cỡ lớn, nhiều lắm chỉ sử dụng được pháo 75 mm. Nava quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành “một pháo đài bất khả xâm phạm”, “một cối xay thịt khổng lồ”, “một cái bẫy hiểm ác” để tiêu diệt chủ lực của Việt Minh. Mĩ và Pháp rất hài lòng và chủ quan cho rằng ta không thể nào giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ được.
- Xuất phát từ việc Nava quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh, Điện Biên Phủ trở thành khâu chính của chiến dịch Nava, ta nhận định: muốn phá tan kế hoạch Nava, tất yếu phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và ta hoàn toàn có khả năng đánh và thắng. Ta chấp nhận và dồn lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ. Đó là điều mà cả Pháp và Mĩ đều không lường trước được.
- Ta đã huy động một lực lượng lớn chuẩn bị cho chiến dịch, gồm 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo và nhiều tiểu đoàn công binh, thông tin, vận tải, quân y... với tổng số 55 000 quân, hàng chục nghìn tấn vũ khí, đạn dược, 27 000 tấn gạo, 11 800 thuyền bè, 21 000 xe đạp, hàng nghìn xe ngựa, xe trâu bò. Đầu tháng 3 - 1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã xong.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong ba đợt và thắng lợi giòn giã:
+ Đợt 1: Ta tiến công tiêu diệt cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc.
+ Đợt 2: Ta chiếm phần lớn các căn cứ của địch, tạo thêm điều kiện để bao vây, chia cắt, khống chế địch.
+ Đợt 3: Quân ta lần lượt tiêu diệt các căn cứ đề kháng còn lại của địch. Chiều 7 - 5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 phút ngày 7 - 5 - 1954, tướng Đờ Cátxtơri cùng toàn bộ Ban tham mưu của địch đầu hàng và bị bắt sống.
- Kết quả: Tại mặt trận Điện Biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16 200 tên địch, trong đó có 1 thiếu tướng, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh.
- Ý nghĩa: Đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi.
Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương
Lúc này, các vụ xung đột trên thế giới có xu hướng được giải quyết bằng giải pháp hòa bình.
Ngày 10 - 9 - 1953, Ban Thường trực Hội đồng hòa bình thế giới cũng thông qua Nghị quyết kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, giải quyết hoà bình vấn đề Đông Dương.
Trong bối cảnh đó, bước vào Đông - Xuân 1953 - 1954, đồng thời với cuộc tiến công quân sự, ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngoại giao, mở ra khả năng kết thúc cuộc chiến tranh bằng con đường hòa bình.
Chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn giải quyết vấn đề kết thúc cuộc chiến tranh bằng đường lối hòa bình là xuất phát từ nguyện vọng hòa bình của nhân dân ta, nhân dân Pháp và nhân dân thế giới. Song hòa bình cũng như độc lập không thể tự nhiên mà có được, nó phải là kết quả của một quá trình đấu tranh gian khổ. Vì vậy. phải đẩy mạnh kháng chiến, tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn nữa thì chúng mới chịu thương lượng để giải quyết hòa bình trên cơ sở tôn trọng quyền độc lập, tự do của ta. Đó là mối quan hệ chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến.
a) Nội dung cơ bản của Hiệp định
- Tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước.
- Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực.
- Các nước ngoài không được đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí và không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương. Các nước Đông Dương không được tham gia bất cứ một khối quân sự nào, không để cho nước khác dùng lãnh thổ của nước mình để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho việc đi xâm lược.
- Việt Nam thống nhất đất nước bằng cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước tổ chức vào tháng 7 - 1956 dưới sự giám sát của Uỷ ban quốc tế (Ấn Độ, Ba Lan và Canada).
- Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người kí Hiệp định và những người kế tục họ.
b) Ý nghĩa
- Hiệp định Giơnevơ là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương và được các cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng. Nó đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, nhưng chưa trọn vẹn vì miền Nam chưa được giải phóng, nhân dân ta còn phải đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
- Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội về nước. Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hóa cuộc chiến tranh xâm lược.
Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)
a) Nguyên nhân thắng lợi
- Có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất.
- Có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, có mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng, có lực lượng vũ trang ba thứ quân sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, có hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.
- Có sự liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và của các nước dân chủ nhân dân khác, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.
b) Ý nghĩa lịch sử
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, chấm dứt ách thống trị thực dân của Pháp gần một thế kỉ trên đất nước ta, miền Bắc được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng một đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc của các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh.