Chương tám: Việt Nam từ năm 1930 - 1945

Diễn biến phong trào cách mạng 1930 - 1931

Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra gay gắt và phong trào cách mạng dâng cao, ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng công - nông rộng khắp cả nước.

- Phong trào trên toàn quốc

Từ tháng 2 đến tháng 4, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân đã nổ ra, công nhân: đồn điền Phú Riềng (2 - 1930), công nhân Nhà máy diêm, Nhà máy cưa Bến Thuỷ (3 - 1930), Nhà máy sợi Nam Định (4 - 1930). Nông dân: Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh. Mục tiêu đấu tranh là đòi cải thiện đời sống: công nhân đòi tăng lương, giảm giờ làm, nông dân đòi giảm sưu, giảm thuế...Bên cạnh đó, xuất hiện những khẩu hiệu chính trị như: “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc”, “Đả đảo phong kiến”, “Thả tù chính trị”...

Đến tháng 5, phong trào đấu tranh lên mạnh. Trên cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh nhân ngày Quốc tế lao động 1 - 5, trong đó đặc biệt sôi nổi là ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Sài Gòn...

Đặc biệt là khu công nghiệp Vinh - Bến Thuỷ trong ngày 1 - 5, công nhân các nhà máy ở đây và nông dân 5 huyện xung quanh đấu tranh nêu những khẩu hiệu kinh tế và chính trị. Chính quyền thực dân đã thẳng tay đàn áp làm 7 người chết, 18 người bị thương và bắt đi gần 100 người. Như lửa đổ thêm dầu, công nông Nghệ - Tĩnh tiếp tục đấu tranh trong suốt tháng 5, tháng 6, tháng 7, tháng 8. Cuộc đấu tranh ngày 1 - 5 - 1930 đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên công nông Việt Nam biểu tình kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đấu tranh đòi quyền lợi cho nhân dân lao động trong nước và thể hiện tình cảm đoàn kết với nhân dân lao động thế giới.

Phong trào sôi nổi dâng cao thành cao trào từ tháng 6 đến tháng 8 - 1930. Cả nước đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh ở 25 tỉnh thành.

Sang tháng 9 phong trào tiếp tục dâng cao, nhất là ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.

- Phong trào ở Nghệ - Tĩnh

Bước sang tháng 9, phong trào đấu tranh ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh phát triển lên tới đỉnh cao. Những cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang với quy mô lớn từ vài nghìn đến vài vạn người tham gia nổ ra ở các huyện Nam Đàn, Diễn Châu, Anh Sơn. Nông dân kéo đến các huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu, thuế. Các cuộc đấu tranh này được công nhân ở Vinh - Bến Thuỷ hưởng ứng.

Tiêu biểu là cuộc biểu tình của nông dân huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) ngày 12 - 9 - 1930 với khoảng 8000 người tham gia. Nông dân kéo đến huyện lị với các khẩu hiệu “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc”, “Đả đảo Nam triều”, “Nhà máy về tay thợ thuyền”, “Ruộng đất về tay dân cày”... khi tới Vinh số người tham gia lên tới 3 vạn người. Pháp cho máy bay ném bom làm chết 217 người, 125 người bị thương, thiêu rụi 277 nóc nhà...

Thực dân Pháp đàn áp dã man cuộc biểu tình, song càng làm cho ngọn lửa đấu tranh bốc cao hơn, phát triển thành cuộc đấu tranh vũ trang. Trong hai tháng 9 và 10 năm 1930, nông dân các huyện Thanh Chương, Diễn Châu (Nghệ An), Hương Sơn (Hà Tĩnh)... đã kéo đến phá huyện lị, nhà giam, nhà ga xe lửa, cắt dây điện tín, phá đồn điền của thực dân Pháp... Công nhân Vinh - Bến Thuỷ bãi công suốt hai tháng liền để ủng hộ phong trào nông dân và phản đối chính sách khủng bố của địch.

Sự ra đời và hoạt động của chính quyền Xô viết Nghệ - Tĩnh

- Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, hệ thống chính quyền thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều thôn, xã, các tổ chức Đảng ở địa phương đã đứng ra tự quản lí đời sống, chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, làm chức năng của chính quyền nhân dân theo hình thức “Xô viết”. Tại Nghệ An, Xô viết ra đời vào tháng 9 - 1930. Ở Hà Tĩnh, Xô viết hình thành vào cuối năm 1930 đầu năm 1931. Các Xô viết thực hiện quyền làm chủ của quần chúng, điều hành mọi mặt đời sống xã hội với chức năng một chính quyền cách mạng.

- Chính sách của Xô viết

Về chính trị, chính quyền mới ban bố và thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân (quần chúng được tự do tham gia hoạt động trong các đoàn thể cách mạng, tự do hội họp). Các đội tự vệ đỏ và toà án nhân dân được thành lập.

Về kinh tế, chính quyền mới tịch thu ruộng đất công, tiền thóc công chia cho dân cày nghèo, bãi bỏ các thứ thuế vô lí, thực hiện giảm tô và xóa nợ cho người nghèo...

Về văn hoá, xã hội, chính quyền mở lớp dạy chữ Quốc ngữ, xoá bỏ những hủ tục mê tín dị đoan, xây dựng đời sống mới.

- Xô viết Nghệ - Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 - 1931. Tuy mới thành lập ở một số thôn, xã, thời gian tồn tại trong 4 - 5 tháng, nhưng Xô viết Nghệ - Tĩnh đã tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt của mình. Đó là chính quyền của dân, do dân và vì dân, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng nhân dân trong cả nước.

Đứng trước sự phát triển của phong trào cách mạng, thực dân Pháp tập trung lực lượng tiến hành khủng bố dã man và dùng nhiều thủ đoạn chia rẽ, dụ dỗ, mua chuộc. Nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ sở quần chúng bị phá vỡ. Nhiều đảng viên và quần chúng cảm tình bị bắt bớ, giam cầm và giết hại. Giữa năm 1931, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống.

Qua diễn biến của phong trào cho thấy, phong trào cách mạng 1930 - 1931 là một cao trào cách mạng triệt để, có quy mô rộng lớn và hình thức đấu tranh quyết liệt.

Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam

- Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang diễn ra quyết liệt, Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) vào tháng 10 - 1930. Chủ trì Hội nghị là đồng chí Trần Phú, mới được bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương lâm thời.

- Nội dung hội nghị bao gồm: quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; cử Ban chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng bí thư; quyết định một số chủ trương, biện pháp để phát triển phong trào cách mạng, phát triển các tổ chức quần chúng và công tác của Đảng; thông qua Luận cương chính trị của Đảng do Trần Phú khởi thảo.

- Nội dung Luận cương xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương: khẳng định cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là đánh đổ phong kiến và đánh đổ đế quốc. Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít với nhau.

Xác định động lực của cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân.

Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cốt yếu bảo đảm cho cách mạng thành công.

- Hình thức và phương pháp đấu tranh: coi trọng tập hợp lực lượng đại đa số quần chúng, lãnh đạo đấu tranh đòi các quyền lợi trước mắt khi tình thế cách mạng xuất hiện thì phát động quần chúng võ trang bạo động đánh đổ chính quyền của giai cấp thống trị.

- Vị trí của cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa, nhất là vô sản Pháp.

- Tuy vậy, luận cương chính trị chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương là mẫu thuẫn dân tộc, không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu, nặng về đấu tranh giai cấp và đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo bộ phận trung, tiểu địa chủ.

Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào cách mạng 1930 - 1931

Trước hết, phong trào đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Đông Dương. Thứ hai, từ phong trào, khối liên minh công nông được hình thành. Thứ ba, phong trào được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ độc lập, trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Thứ tư, phong trào có ý nghĩa như một cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng sau này vì đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm. Qua phong trào, Đảng ta thu được những kinh nghiệm quý báu về công tác tư tưởng, về xây dựng khối liên minh công nông và mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức và lãnh đạo quần chúng.

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (3 - 1935)

Trước tình hình hệ thống tổ chức của Đảng được tái lập, phong trào quần chúng được phục hồi. Ban chỉ huy ở ngoài triệu tập Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương tại Ma Cao, Trung Quốc từ ngày 27 đến ngày 31 - 3 - 1935. Tham dự Đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho hơn 500 đảng viên thuộc các đảng bộ trong nước và nước ngoài. Đại hội bao gồm các nội dung: xác định ba nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc; thông qua nghị quyết chính trị, điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, binh lính, thanh niên, phụ nữ; bầu ra Ban chấp hành Trung ương và bầu Lê Hồng Phong làm Tổng bí thư của Đảng, Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng ta tại Quốc tế Cộng sản.

Đại hội lần thứ nhất đánh dấu Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương, đồng thời cũng đánh dấu sự phục hồi của phong trào cách mạng Việt Nam.

Tình hình thế giới có ảnh hưởng tới phong trào cách mạng Việt Nam những năm 1936 - 1939

Đầu những năm 30 của thế kỉ XX, bọn phát xít lên nắm chính quyền ở một số nước như Italia, Đức, Nhật. Trục phát xít Rôma - Béclin - Tôkyô hình thành, ráo riết chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh thế giới, đẩy nhân loại đến bờ vực chiến tranh.

Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội VII. Đại hội họp ở Mátxcơva từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1935. Đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương dự đại hội với tư cách là một thành viên chính thức, do Lê Hồng Phong dẫn đầu.

Đại hội đã phân tích tình hình và nhận định, kẻ thù chính, trước mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới lúc này chưa phải là chủ nghĩa tư bản nói chung, mà là chủ nghĩa phát xít, bộ phận phản động nhất, hiếu chiến nhất của chủ nghĩa tư bản. Từ đó, Đại hội thông qua nghị quyết quan trọng về nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là chống chủ nghĩa phát xít, mục tiêu đấu tranh là giành dân chủ, bảo vệ hoà bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi.

Sau Đại hội, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế giới phát triển. Nhiều nước đã thành lập mặt trận nhân dân. Ở Pháp, Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt cùng với các đảng phái cánh tả khác lập Mặt trận Nhân dân Pháp và trong cuộc bầu cử vào Quốc hội Pháp năm 1936, Mặt trận Nhân dân Pháp thắng lợi lớn và đã đứng ra thành lập chính phủ mới do ông Lêông Blum, Đảng Xã hội Pháp làm thủ tướng. Chính phủ mới đã ban hành nhiều chính sách có lợi cho các thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam. Đồng thời, Đảng Cộng sản Pháp phát động trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp cuộc đấu tranh rộng lớn đòi ân xá chính trị phạm. Tình hình trên đã có ảnh hưởng lớn đến cách mạng Việt Nam.

Tình hình Việt Nam những năm 1936 - 1939

Lúc này, chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình Đông Dương, cử toàn quyền mới, sửa đổi đôi chút luật bầu cử vào Viện dân biểu, ân xá một số tù chính trị và nới rộng quyền tự do báo chí... Việc nhà cầm quyền Đông Dương buộc phải ân xá cho tù chính trị, phần lớn là những người cộng sản đã bổ sung nguồn cán bộ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương cho phong trào cách mạng mới.

Nhìn chung vào những năm 1936 - 1939, nền kinh tế Việt Nam phục hồi và phát triển, song vẫn lạc hậu và lệ thuộc vào kinh tế Pháp. Mặt khác, do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 kéo dài, cùng với cuộc khủng bố dã man của thực dân Pháp đã tác động sâu sắc tới đời sống của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam. Đời sống của đa số quần chúng khó khăn, cực khổ, nên họ hăng hái tham gia đấu tranh đòi cải thiện đời sống, đòi tự do dân chủ, cơm áo, hòa bình.

* Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương 7 - 1936

Căn cứ vào tình hình thế giới, trong nước và vận dụng sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản vào hoàn cảnh nước ta, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong chủ trì, họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) đã định ra đường lối và phương pháp đấu tranh: Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế quốc và chống phong kiến. Nhiệm vụ trực tiếp trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Khẩu hiệu đấu tranh là “tạm thời chưa nêu ra khẩu hiệu đánh đổ đế quốc” và “tịch thu ruộng đất của bọn địa chủ chia cho dân cày” mà nêu “đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình”. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Đến tháng 3 - 1938 đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương bao gồm các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị và tôn giáo khác nhau... Các hình thức tổ chức quần chúng thay đổi cho phù hợp: công hội, nông hội thay bằng các hội cứu tế, ái hữu... Nghị quyết của Hội nghị chứng tỏ sự trưởng thành của Đảng ta trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của Đông Dương. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương các năm 1937 và 1938 đã bổ sung và phát triển nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 - 1936.

* Những phong trào đấu tranh tiêu biểu trong thời kì 1936 - 1939

- Phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ.

Giữa năm 1936, được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình ở Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương phát động và tổ chức nhân dân thu thập nguyện vọng tự do, dân chủ trong cả nước gửi tới phái đoàn, tiến tới triệu tập Đông Dương Đại hội. Phong trào được quần chúng hưởng ứng rất đông đảo và gây một tiếng vang rất lớn ở trong nước cũng như trên thế giới. Các ủy ban hành động được thành lập khắp nơi trong nước, nhiều nhất là ở Nam Kì như Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho. Quần chúng sôi nổi tham gia các cuộc mít tinh, hội họp, hàng vạn lá đơn, thư, bản kiến nghị kèm theo hàng triệu chữ kí của quần chúng được tập hợp về các ủy ban hành động để gửi tới phái đoàn. Trước sự phát triển của phong trào, chính quyền thực dân buộc phải giải quyết một phần yêu sách của nhân dân. Nhưng đến giữa tháng 9 - 1936, chính quyền thực dân ra lệnh giải tán các ủy ban hành động, cấm các cuộc hội họp của nhân dân. Mặc dù phái đoàn của Quốc hội Pháp không sang, phong trào Đông Dương Đại hội bị cấm hoạt động song phong trào Đông Dương đại hội đã làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của quần chúng. Đảng tích lũy được một số kinh nghiệm đấu tranh công khai, hợp pháp.

Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ tiếp tục được dấy lên nhân dịp “đón rước” phái viên Chính phủ Pháp (Gôđa) và toàn quyền Đông Dương (Brêvie) sang nhậm chức năm 1937. Lợi dụng sự kiện này, Đảng đã tổ chức quần chúng mít tinh “đón rước” nhưng thực chất là biểu dương lực lượng. Phong trào nổ ra rầm rộ, sôi nổi. Trên đường Gôđa đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, đến đâu nhân dân cũng biểu tình, đưa yêu sách đòi dân sinh, dân chủ.

Các cuộc mít tinh, biểu tình đòi quyền sống của các tầng lớp nhân dân tiếp tục diễn ra vào những năm 1937 - 1939. Trong đó tiêu biểu là cuộc đấu tranh nhân ngày 1 - 5 - 1938: lần đầu tiên trong ngày Quốc tế lao động các cuộc mít tinh được tổ chức công khai ở Hà Nội và nhiều nơi khác, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Riêng ở Hà Nội, cuộc mít tinh ở khu Đấu Xảo có tới 2,5 vạn người tham gia.

Đứng trước khí thế đấu tranh của quần chúng buộc nhà cầm quyền ra nghị định ban hành một số quyền lợi cho công nhân như: thời gian làm việc không quá 10 giờ/ ngày từ tháng 11 - 1936, không quá 9 giờ/ ngày từ 1 - 1 - 1937, không quá 8 giờ/ ngày từ 1 - 1 - 1938, công nhân được nghỉ ngày chủ nhật có trả lương và nghỉ phép năm, cấm bắt phụ nữ và trẻ em làm việc ban đêm,...

- Đấu tranh nghị trường.

Đảng Cộng sản Đông Dương đã tận dụng mọi khả năng đấu tranh công khai, hợp pháp. Một hình thức mới được Đảng thực hiện là đấu tranh nghị trường. Đảng chủ trương sử dụng nghị trường như một diễn đàn công khai vạch trần chính sách phản động của bọn thực dân, tay sai, bênh vực quyền lợi của nhân dân lao động và mở rộng lực lượng của Mặt trận dân chủ. Để làm được việc đó, Đảng đã đưa người của Mặt trận dân chủ Đông Dương ứng cử vào Viện Dân biểu Bắc Kì, Hội đồng Kinh tế lí tài Đông Dương, Hội đồng quản hạt Nam Kì. Đồng thời, Đảng sử dụng báo chí để tuyên truyền, vận động cử tri bỏ phiếu cho những ứng cử viên này. Kết quả là, ta đã giành thắng lợi trong cuộc bầu Viện Dân biểu Trung Kì năm 1937 và Viện Dân biểu Bắc Kì, Hội đồng kinh tế - tài chính Đông Dương năm 1938. Trong kì họp của Hội đồng dân biểu Trung kì tháng 9 - 1938 các nghị viên đã bác bỏ dự án thuế thân và thuế điền của chính quyền thực dân đưa ra.

- Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí công khai

Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệt để sử dụng báo chí công khai làm vũ khí đấu tranh cách mạng, tuyên truyền đường lối quan điểm của Đảng, tập hợp, hướng dẫn phong trào đấu tranh của quần chúng. Thời kì này Đảng ta đã xuất bản và phổ biến rộng rãi hàng loạt tờ báo bằng tiếng Việt, tiếng Pháp. Trong đó đáng chú ý nhất là các tờ: Tin tức, Dân chúng, Lao động, Tiến lên, Tiền phong. Đồng thời nhiều sách chính trị - lí luận, các tác phẩm văn học hiện thực phê phán, thơ cách mạng cũng được xuất bản, đặc biệt là bộ Vấn đề dân cày của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp. Báo chí cách mạng đã trở thành mũi nhọn sắc bén trong những phong trào lớn của cuộc vận động đòi dân sinh, dân chủ. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được giác ngộ về con đường cách mạng của Đảng ở thời kì 1936 - 1939.

- Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào dân chủ 1936 - 1939.

Đây là cuộc đấu tranh chính trị công khai, hợp pháp diễn ra rất rộng lớn, có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương chưa từng có trong lịch sử nước ta. Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, phong trào đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân chủ. Qua phong trào quần chúng được giác ngộ chính trị và được tập dượt đấu tranh, đội quân chính trị hùng hậu được hình thành, tiêu biểu là Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

Qua phong trào nhiều cán bộ tiếp tục được đào tạo, tập hợp thành đội ngũ đông đảo và ngày càng trưởng thành. Đảng ta được rèn luyện trong công tác lãnh đạo. Phong trào đã động viên, giáo dục, tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu tranh đồng thời đập tan những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc với nhiều hành động phá hoại của các thế lực phản động khác.

Phong trào dân chủ 1936 - 1939 đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong việc đề ra chủ trương đấu tranh đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, trong xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp và vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mặt khác, qua phong trào Đảng ta cũng thấy được hạn chế của mình trong công tác Mặt trận, giải quyết vấn đề dân tộc.

Tất cả những điều đó chứng tỏ phong trào Dân chủ 1936 - 1939 là cuộc tập dượt, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

Những sự kiện tác động đến tình hình Việt Nam những năm 1939 - 1945

- Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu, quân đội phát xít Đức kéo vào nước Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức, thực hiện chính sách thù địch đối với lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng các nước thuộc địa.

- Cuối tháng 9 - 1940, quân phiệt Nhật vượt biên giới Việt - Trung tiến vào miền Bắc Việt Nam. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Nhật lấn dần từng bước để biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến tranh của chúng

- Thực dân Pháp ở Đông Dương đứng trước hai nguy cơ một là phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương đang ngày càng lớn mạnh; hai là phát xít Nhật đang lăm le hất cẳng Pháp. Vì vậy, thực dân Pháp ở Đông Dương đã thi hành chính sách thời chiến, phát xít hoá bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng của nhân dân ta. Thực dân Pháp đã nhanh chóng câu kết với phát xít Nhật để áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương. Mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với đế quốc phát xít Pháp - Nhật trở thành mâu thuẫn gay gắt chủ yếu nhất. Vì vậy, giải phóng các dân tộc ở Đông Dương khỏi ách thống trị của Pháp - Nhật trở thành nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất.

Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm 1939 - 1945

Đầu tháng 9 - 1939, Toàn quyền Đông Dương của Pháp Catơru ra lệnh tổng động viên nhằm cung cấp cho nước Pháp tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân sự, nhân lực, các sản phẩm và nguyên liệu. Thực dân Pháp thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy”, tăng mức thuế cũ, đặt thêm thuế mới, đồng thời sa thải bớt công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm, kiểm soát gắt gao việc sản xuất và phân phối, ấn định giá cả.

Khi quân Nhật vào Đông Dương, Pháp buộc phải để cho Nhật sử dụng các phương tiện giao thông, kiểm soát hệ thống đường sắt và tàu biển. Nhật bắt chính quyền thực dân Pháp nạp cho chúng một khoản tiền lớn và xuất các nguyên liệu chiến lược sang Nhật. Quân Nhật còn cướp ruộng của nông dân, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để trồng đay, thầu dầu phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.

Một số công ti của Nhật đã đầu tư vào những ngành phục vụ cho nhu cầu quân sự như: Khai thác mangan, sắt ở Thái Nguyên, apatít ở Lào Cai, crôm ở Thanh Hoá.

Chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp - Nhật đã đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng cực. Hậu quả là cuối năm 1944 - đầu năm 1945, có gần 2 triệu đồng bào ta chết đói.

- Đường lối, chủ trương của Đảng trong tình hình mới.

Đường lối, chủ trương của Đảng được thể hiện qua các nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11 - 1939 và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá 8 (5 - 1941).

- Tháng 11 - 1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). Hội nghị xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công nông binh được thay thế bằng khẩu hiệu lập chính phủ dân chủ cộng hoà. Về phương pháp đấu tranh, Đảng quyết định chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp. Để tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế quốc và ách thống trị phát xít thuộc địa, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11 - 1939 đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng, đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng.

- Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 10 đến 19 - 5 - 1941 tại Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng), đã khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc, tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm thuế, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ, sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, sẽ thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hội nghị quyết định thay tên các hội Phản đế thành hội Cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập Mặt trận ở các nước Lào, Campuchia. Hội nghị xác định hình thức của cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và nhấn mạnh: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng, của toàn dân. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5 - 1941 có ý nghĩa to lớn, đã hoàn chỉnh chủ trương được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11 - 1939, nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy. Ngày 19 - 5 - 1941, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Năm tháng sau, Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ của Việt Minh được công bố chính thức. Chương trình cứu nước của Việt Minh được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ.

Khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và Binh biến Đô Lương

- Đêm ngày 27 - 9 - 1940, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy chặn đánh quân Pháp chiếm đồn Mỏ Nhài. Chính quyền địch ở Bắc Sơn tan rã. Nhân dân làm chủ châu lị và các vùng lân cận. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập, nhưng sau 1 tháng đã bị Pháp - Nhật câu kết đàn áp.

Khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại nhưng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, mở đầu phong trào đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc sau khi có chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng. Khởi nghĩa Bắc Sơn giúp Đảng ta rút ra những bài học quý báu về khởi nghĩa vũ trang, chọn thời cơ khởi nghĩa.

- Tháng 11 - 1940, xảy ra cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và Xiêm (Thái Lan). Chính quyền thực dân bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên đi làm bia đỡ đạn. Nhân dân Nam Kì và binh lính đã đấu tranh phản đối việc đưa binh lính ra mặt trận. Trong bối cảnh đó, Xứ uỷ Nam Kì chuẩn bị phát động nhân dân khởi nghĩa và cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương.

Người mang chỉ thị hoãn khởi nghĩa Nam Kì của Trung ương Đảng khi về đến Sài Gòn thì bị địch bắt. Lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ đã về đến địa phương, nên cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra vào đúng thời hạn quy định là đêm 22 rạng sáng ngày 23 - 11 - 1940.

Khởi nghĩa bùng nổ từ miền Đông đến miền Tây Nam Kì như Biên Hoà, Rạch Giá, Mĩ Tho, Vĩnh Long. Chính quyền cách mạng đã được thành lập ở nhiều nơi. Trong cuộc khởi nghĩa, lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng. Do kế hoạch bị lộ, thực dân Pháp đã kịp thời đối phó và tàn sát rất dã man.

- Ngày 13 - 1 - 1941, binh lính đồn Chợ Rạng (Nghệ An) dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) đã nổi dậy. Cuộc binh biến không có sự tham gia của đông đảo quần chúng, kế hoạch khởi nghĩa không rõ ràng nên đã bị dập tắt nhanh chóng.

Các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp trong các năm 1940 - 1941 đều thất bại là do:

+ Thời cơ chưa chín muồi trong cả nước, chỉ xuất hiện lẻ tẻ ở từng địa phương.

+ Kẻ thù vẫn còn mạnh, tập trung lực lượng để đàn áp.

Tuy nhiên, trong thời gian ngắn hơn 3 tháng, ba cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra ở ba miền của đất nước do nhiều tầng lớp nhân dân và binh lính tham gia, đã nêu cao tinh thần bất khuất của dân tộc. Đó là những tiếng súng báo hiệu cuộc khởi nghĩa toàn quốc sắp nổ ra, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của nhân dân ta.

Đảng ta tiến hành xây dựng lực lượng cho Tổng khởi nghĩa từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 - 1941)

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5 - 1941), Đảng ta đã gấp rút xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.

- Xây dựng lực lượng chính trị: Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng là vận động quần chúng tham gia Việt Minh. Cao Bằng là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các hội Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp các châu ở Cao Bằng đều có hội Cứu quốc, trong đó có ba châu “hoàn toàn”. Tiếp đó, Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng được thành lập.

Ở nhiều tỉnh Bắc Kì, thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng và một số tỉnh Trung Kì, hầu hết các hội Phản đế chuyển thành hội Cứu quốc, đồng thời nhiều hội Cứu quốc mới được thành lập.

Năm 1943, Đảng đề ra bản Đề cương văn hoá Việt Nam, vận động thành lập Hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam (cuối năm 1944) và Đảng Dân chủ Việt Nam nằm trong Mặt trận Việt Minh (6 - 1944). Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương đấu tranh chống phát xít.

- Xây dựng lực lượng vũ trang: Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ trương của Đảng, một bộ phận lực lượng vũ trang khởi nghĩa chuyển sang xây dựng thành những đội du kích, hoạt động ở căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Bước sang năm 1941, những đội du kích Bắc Sơn lớn mạnh lên và thống nhất lại thành Trung đội Cứu quốc quân I (14 - 2 - 1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 7 - 1941 đến tháng 2 - 1942) để đối phó với sự vây quét của địch, sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng, gây dụng cơ sở chính trong quần chúng tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15 - 9 - 1941, Trung đội Cứu quốc quân II ra đời.

- Xây dựng căn cứ địa: Công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng cũng được Đảng quan tâm. Vùng Bắc Sơn - Võ Nhai được Hội nghị Trung ương tháng 11 - 1940 chủ trương xây dựng thành căn cứ địa cách mạng. Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa trên cơ sở lực lượng chính trị được tổ chức và phát triển. Đó là hai căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta.

Gấp rút chuẩn bị Tổng khởi nghĩa

- Ở căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, Cứu quốc quân hoạt động mạnh, tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ. Trong quá trình đó, Trung đội Cứu quốc quân III ra đời (25 - 2 - 1944). Ở căn cứ Cao Bằng, những đội tự vệ vũ trang, đội du kích được thành lập. Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng lập ra 19 ban “xung phong Nam tiến” để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi. Ngày 7 - 5 - 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp “Sửa soạn khởi nghĩa” và ngày 10 - 8 - 1944, Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân ”Sắm vũ khí đuổi thù chung”. Ngày 22 - 12 - 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Chỉ hai ngày sau khi ra đời, Đội đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Căn cứ Cao - Bắc - Lạng được củng cố và mở rộng.

- Công cuộc chuẩn bị được tiếp tục cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa. Ngay khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng ta đã nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng các điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín muồi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu: ”Đánh đuổi Pháp - Nhật” được thay bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật“.

Hình thức đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện. Hội nghị quyết định “phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”.

Khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945)

Ở Bắc Kì, Đảng đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách của nông dân, tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.

Đồng thời, khởi nghĩa từng phần nổ ra ở nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh) ngày 10 - 3, ở Bần Yên Nhân (Hưng Yên)...

Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng (11 - 3), tổ chức đội du kích Ba Tơ.

Ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh, nhất là ở Mĩ Tho và Hậu Giang.

Đầu tháng 8 - 1945, quân Đồng minh tiến công mạnh mẽ quân đội Nhật ở châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 8 - 8 - 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật rồi tổng công kích đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Quân Nhật thua trận, Chính phủ Nhật phải đầu hàng Đồng minh. Chính phủ Trần Trọng Kim cùng tay sai của Nhật hoang mang. Đúng giữa trưa ngày 15 - 8 - 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng không điều kiện các lực lượng Đồng minh. Điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến.

Ngay từ ngày 13 - 8 - 1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật sắp đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc. Đến 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, chính thức phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Từ ngày 14 đến 15 - 8 - 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang), thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.

Ngày hôm sau, Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Khí thế cách mạng sục sôi trong cả nước. Khởi nghĩa nổ ra tại nhiều nơi ở đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế...

Chiều ngày 16 - 8 - 1945, một đơn vị giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.

Ngày 18 - 8 - 1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành được chính quyền ở tỉnh lị.

Ở Hà Nội, tối ngày 19 - 8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.

Ở Huế, nhân dân chiếm các công sở, giành chính quyền về tay nhân dân ngày 23 - 8.

Sáng ngày 25 - 8, quần chúng chiếm Sở Mật thám, Sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện, nhà máy điện... giành chính quyền ở Sài Gòn.

Nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám

- Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao lá cờ cứu nước thì toàn thể nhân dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

- Để giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã có quá trình chuẩn bị trong suốt 15 năm, qua các phong trào cách mạng 1930 - 1935, 1936 - 1939, đã đúc rút được những bài học kinh nghiệm từ những thành công và thất bại. Đảng đã tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu nước rộng rãi trong Mặt trận Dân tộc thống nhất - Mặt trận Việt Minh trên cơ sở công nông liên minh, phân hoá và cô lập cao độ kẻ thù, tiến tới đánh bại chúng.

- Trong những ngày khởi nghĩa, toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hi sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do. Các cấp bộ Đảng và Việt Minh từ trung ương đến địa phương đã linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khỏi nghĩa, chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

- Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và quân Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít, nhất là phát xít Đức và quân phiệt Nhật Bản, đã tạo thời cơ để nhân dân ta đứng lên Tổng khởi nghĩa.

Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám

- Cách mạng tháng Tám mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta. Nó đã phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm và ách thống trị của phát xít Nhật 5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị ngót chục thế kỉ ở nước ta, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.

- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do; kỉ nguyên nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành một Đảng cầm quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo.

- Góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm suy yếu chúng.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập

Ngày 25 - 8 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội.

Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (28 - 8 - 1945). Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập, chuẩn bị mọi công việc để Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân.

Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng vạn nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập.

Những nội dung chính của bản Tuyên ngôn Độc lập:

- Nêu rõ quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

- Tố cáo tội ác của Pháp và Nhật, nhấn mạnh tội ác của thực dân Pháp trong suốt thời gian thống trị nước ta hơn 80 năm và đang có âm mưu trở lại xâm lược nước ta một lần nữa.

- Khẳng định chủ quyền của nước ta cả về mặt pháp lí cũng như về thực tế “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.

- Cuối cùng, Tuyên ngôn khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền của nhân dân ta “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.