Chương bốn: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 - 2000)
Nước Mĩ
- Sự phát triển kinh tế, khoa học - kĩ thuật (1945 - 1973)
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, trong khi các nước tư bản phương Tây lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy sụp thì Mĩ đã vươn lên vị trí số 1 và trở thành nước tư bản giàu, mạnh nhất thế giới. Trong khoảng 20 năm sau chiến tranh, Mĩ là trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới: sản lượng công nghiệp Mĩ chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản. Sản lượng nông nghiệp của Mĩ gấp hai lần sản lượng nông nghiệp của 5 nước Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia và Nhật Bản cộng lại. Về tài chính, Mĩ nắm trong tay gần 3/4 dự trữ vàng của thế giới. Mĩ là chủ nợ duy nhất của các nước tư bản. Trong số các phương tiện đi lại trên biển, Mĩ chiếm hơn 50%.
Trong lĩnh vực khoa học - kĩ thuật, Mĩ là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại, đi đầu và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong nhiều lĩnh vực như chế tạo công cụ sản xuất (máy tính điện tử, máy tự động), vật liệu mới, năng lượng mới, chinh phục vũ trụ, cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp,...
Về quân sự, lục quân, hải quân và không quân của Mĩ vươn lên hàng đầu thế giới, bỏ xa các nước tư bản đồng minh. Mĩ lại nắm độc quyền về vũ khí nguyên tử (tính đến năm 1949).
- Nguyên nhân của sự phát triển kinh tế Mĩ:
+ Lãnh thổ của nước Mĩ rộng lớn, đất đai màu mỡ, tài nguyên phong phú.
+ Có nguồn nhân lực dồi dào và được đào tạo về trình độ kĩ thuật cao.
+ Tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai muộn, ít bị tổn thương trong chiến tranh.
+ Có nền khoa học - kĩ thuật hiện đại, năng suất lao động cao, hạ giá thành sản phẩm.
+ Trình độ tập trung tư bản và sản xuất ở Mĩ rất cao.
+ Nhà nước chỉ huy, điều tiết nền kinh tế có hiệu quả.
- Tình hình chính trị - xã hội
Mĩ là nước Cộng hòa liên bang theo chế độ tổng thống với hai đảng Dân chủ và Cộng hòa thay phiên nhau cầm quyền.
+ Về đối nội:
Tuy là nước tư bản phát triển, nhưng nước Mĩ vẫn chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Từ năm 1945 đến 1973 trải qua 7 lần khủng hoảng và suy thoái, lạm phát, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo. Những vụ bê bối về chính trị, ám sát, tiết lộ tài liệu mật, vụ Oatơghết...
Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, cải thiện đời sống diễn ra mạnh mẽ như phong trào đấu tranh của người da đen (1963), của người da đỏ (1969 - 1973), phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam của nhân dân Mĩ.
+ Về đối ngoại:
Mĩ triển khai chiến lược toàn cầu với tham vọng làm bá chủ thế giới và học thuyết Tơruman về chiến lược “Ngăn chặn”, học thuyết Aixenhao về “Chiến lược trả đũa ồ ạt”, học thuyết Kennơđi về chiến lược “Phản ứng linh hoạt”, học thuyết Níchxơn về “Ngăn đe thực tế”... nhằm:
Ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới tiêu diệt hoàn toàn CNXH trên thế giới.
Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. Khống chế, chi phối các nước đồng minh cũ của Mĩ.
Để thực hiện được mục tiêu của chiến lược toàn cầu, Mĩ dựa vào sức mạnh kinh tế và quân sự, tiến hành “chiến tranh lạnh” với Liên Xô, nhúng tay hoặc tiếp tay cho những cuộc chiến tranh, bạo loạn hoặc đảo chính lật đổ ở một số nơi trên thế giới.
Đầu năm 1972, Tổng thống Níchxơn thăm Trung Quốc, để thực hiện sách lược hòa hoãn với các nước lớn.
- Sự phát triển kinh tế, khoa học - kĩ thuật (1973 - 2000).
Do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng (1973), kinh tế Mĩ lâm vào khủng hoảng và suy thoái kéo dài. Từ năm 1983, kinh tế Mĩ bắt đầu phục hồi và phát triển trở lại. Mĩ vẫn là nước đứng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế và tài chính, nhưng tỉ trọng của nền kinh tế Mĩ giảm sút nhiều so với trước đây (chỉ chiếm hơn 20% sản lượng công nghiệp toàn thế giới). Bước sang thập kỉ 90 của thế kỉ XX, kinh tế Mĩ lại lâm vào một đợt suy thoái nặng nề, nhưng vẫn đứng đầu thế giới; Mĩ nắm vai trò chi phối hầu hết các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế, như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB),... Mĩ luôn dẫn đầu thế giới về khoa học - kĩ thuật, chiếm 1/3 số lượng bản quyền phát minh sáng chế của toàn thế giới.
- Tình hình chính trị - xã hội
Về đối nội:
- Từ năm 1973 đến năm 2000, nước Mĩ trải qua nhiều đời tổng thống. Trong thập niên 80, Mĩ thực hiện Học thuyết Rigân, đạt được một số kết quả nhất định, nhưng nước Mĩ vẫn tiếp tục gặp phải nhiều khó khăn.
- Đến thời Tổng thống Clinton cố gắng ứng dụng ba giá trị: cơ hội, trách nhiệm và cộng đồng để vượt qua những thử thách, theo đó chính quyền cố gắng tạo thêm nhiều việc làm, mở rộng thị trường và đầu tư con người.
Về đối ngoại:
- Sau chiến tranh Việt Nam, Mĩ tiếp tục triển khai chiến lược toàn cầu và theo đuổi “chiến tranh lạnh”, đặc biệt là thực hiện học thuyết Rigân với chiến lược “Đối đầu trực tiếp”, đẩy mạnh chạy đua vũ trang, can thiệp vào nhiều địa bàn chiến lược và điểm nóng trên thế giới.
- Từ những năm 80, Mĩ điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng hòa dịu, đối thoại, hòa hoãn với Liên Xô đến tháng 12 - 1989, Liên Xô tuyên bố chấm dứt “chiến tranh lạnh”. Mĩ ra sức tác động vào quá trình khủng hoảng và tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu (1989 - 1991).
- Vào thập niên 90, Mỹ triển khai chiến lược “Cam kết mở rộng” với ba trụ cột: bảo đảm an ninh với một lực lượng quân sự mạnh và sẵn sàng chiến đấu cao; khôi phục phát triển tính năng động và sức mạnh của nền kinh tế Mĩ; sử dụng khẩu hiệu “dân chủ” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.
Các nước Tây Âu
Tình hình kinh tế các nước Tây Âu sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.
- Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, các nước Tây Âu (dù thắng trận hay bại trận) đều bị tàn phá nặng nề và lâm vào tình trạng khủng hoảng, kiệt quệ. Ngay sau đó, các nước Tây Âu nhận giúp đỡ của Mĩ qua “Kế hoạch Mácsan” (Kế hoạch phục hưng châu Âu). Theo đó, Mĩ sẽ “viện trợ” cho Tây Âu với số tiền 17 tỉ USD để khôi phục và phát triển kinh tế, đổi lại Tây Âu phải lệ thuộc vào Mĩ và là đồng minh của Mĩ. Kết quả, đến năm 1950, kinh tế các nước Tây Âu về cơ bản đã được phục hồi, nhưng lại trở thành đối trọng với khối các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
- Từ nửa sau những năm 50, các nước Tây Âu có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: Cộng hòa liên bang Đức trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ 3, Anh thứ tư, Pháp thứ 5 trong thế giới tư bản. Nhiều nước châu Âu thực hiện liên minh phát triển kinh tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi như Anh và Pháp xây dựng đường hầm qua eo biển Măngsơ, nối liền giữa hai quốc gia. Đến giữa những năm 70, các nước Tây Âu trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới (cùng với Mỹ và Nhật Bản).
Có thể nêu ra 4 nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự phát triển của kinh tế Tây Âu sau Chiến tranh Thế giới thứ hai:
Sự phấn đấu nỗ lực của chính người dân lao động;
Việc áp dụng thành công những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại trong sản xuất;
Sự điều tiết của bộ máy nhà nước trong việc quản lí, thúc đẩy nền kinh tế và tận dụng tốt các cơ hội bên ngoài;
Biết tận dụng tốt cơ hội từ bên ngoài, như sự viện trợ của Mĩ, mua được nguyên liệu giá rẻ ở các nước và sự hợp tác có hiệu quả của Cộng đồng châu Âu (EC),...
- Từ năm 1973 đến năm 1991, do tác động của khủng hoảng năng lượng (1973) và sự cạnh tranh quyết liệt của các nền kinh tế Mĩ, Nhật Bản và các nước NICs,... nền kinh tế của các nước Tây Âu lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, phát triển không ổn định, tiêu biểu là ở Anh, Pháp, Đức,...
Tình hình chính trị và chính sách đối ngoại của các nước Tây Âu.
- Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, các nước Tây Âu ưu tiên củng cố chính quyền của giai cấp tư sản, ổn định tình hình chính trị - xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế, liên minh chặt chẽ với Mĩ (bằng việc gia nhập khối quân sự NATO).
- Từ năm 1950 trở đi, các nước Tây Âu tiếp tục phát triển đi theo chế độ dân chủ tư sản, củng cố vai trò nắm quyền của giai cấp tư sản, trong đó Pháp và Italia theo chế độ Cộng hòa đại nghị, Anh theo chế độ Quân chủ lập hiến,... Tuy nhiên xã hội thiếu tính ổn định, do phân hóa giàu - nghèo ngày càng lớn, tội phạm maphia,...
- Về đối ngoại, ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, các nước Tây Âu tiến hành xâm lược trở lại các thuộc địa của mình. Pháp xâm lược trở lại Đông Dương, Hà Lan xâm lược trở lại Inđônêxia, Anh xâm lược trở lại Miến Điện và Malaixia,... Nhưng từ những năm 50 trở đi, thuộc địa của các nước Tây Âu lần lượt giành được độc lập.
- Điểm nổi bật trong xu hướng đối ngoại của các nước Tây Âu từ năm 1950 có thể chia làm 2 nhóm nước: Một số nước tiếp tục liên minh và phụ thuộc chặt chẽ vào Mĩ, ủng hộ Mĩ trong chiến tranh ở Việt Nam (Anh, Tây Đức, Italia). Một số nước cố gắng khẳng định ý thức độc lập của mình, dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của Mĩ, phát triển mối quan hệ với Liên Xô và Đông Âu (Pháp, Thụy Điển, Phần Lan,...).
- Cũng từ năm 1973, ở Tây Âu bắt đầu xu thế hòa hoãn, giảm bớt sự căng thẳng với các nước XHCN, thông qua kí Định ước Henxinki về an ninh và hợp tác châu Âu (1975), phá bỏ bức tường Béclin (1989) để tái thống nhất nước Đức (1990), mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trong khu vực Đông Âu, Liên Xô, Trung Quốc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi,...
Liên minh châu Âu (EU)
- Nguyên nhân dẫn đến sự liên kết khu vực ở Tây Âu.
Các nước Tây Âu đều có chung nền văn hóa, kinh tế lại không cách biệt nhiều, có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hóa, đặc biệt là dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật thì việc liên kết với nhau để cùng phát triển là một xu thế tất yếu. Các nước Tây Âu cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, các nước Tây Âu được Mĩ viện trợ kinh tế theo “Kế hoạch Mácsan” để phục hưng đất nước, đổi lại họ phải lệ thuộc vào Mĩ. Từ 1950 trở đi, nền kinh tế của họ đã phục hồi và phát triển, họ không muốn bị lệ thuộc bên ngoài, nên đã liên kết lại để cùng phát triển đi lên.
- Quá trình liên kết khu vực ở Tây Âu (EU).
Tháng 4 - 1951, sáu nước gồm Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan và Lúcxămbua cùng nhau thành lập “Cộng đồng than, thép châu Âu” (ECSC). Tháng 3 - 1957, sáu nước này lại kí Hiệp ước Rôma cùng nhau thành lập “Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu” (EURATOM), sau đó là “Cộng đồng kinh tế châu Âu” (EEC) nhằm hình thành một thị trường chung để xóa dần hàng rào thuế quan giữa các nước, tiến tới tự do lưu thông hàng hóa. Năm 1967, ba cộng đồng trên (Cộng đồng than, thép châu Âu, Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu và Cộng đồng kinh tế châu Âu) sáp nhập với nhau thành Cộng đồng châu Âu (viết tắt là EC).
Tháng 12 - 1991, các nước thành viên EC họp hội nghị cấp cao tại Hà Lan và thông qua hai quyết định quan trọng: Thống nhất châu Âu thành một thị trường chung về kinh tế, sử dụng đồng tiền chung duy nhất cho toàn châu Âu; Xây dựng một liên minh chính trị, mở rộng liên kết về chính sách đối ngoại và an ninh, tiến tới một nhà nước chung châu Âu. Hội nghị đánh dấu sự đột biến của quá trình liên kết quốc tế ở châu Âu. Ngày 1 - 1 - 1993, Cộng đồng châu Âu (EC) chính thức đổi tên thành Liên minh châu Âu (EU) với 15 thành viên. Tháng 3 - 1995, bảy nước trong Liên minh EU tuyên bố hủy bỏ sự kiểm soát việc đi lại giữa các quốc gia với nhau. Ngày 1 - 1 - 1999, đồng tiền chung châu Âu chính thức được phát hành với tên gọi mới là đồng ơrô (EURO) và ngày 1 - 1 - 2002 chính thức được sử dụng ở các nước trong khối EU.
Cho đến nay, sau nhiều năm thành lập và hoạt động, Liên minh châu Âu đã trở thành một liên minh kinh tế - chính trị lớn nhất hành tinh (chiếm khoảng 1/4 GDP của thế giới), có tổ chức chặt chẽ và là một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính của thế giới (Mĩ, Tây Âu và Nhật Bản). Cho đến năm 2004, số nước thành viên của tổ chức này đã lên tới 25 nước, năm 2007 là 27 nước.
Năm 1990, Việt Nam thiết lập quan hệ với Liên minh EU, mở ra một thời kì mới trong quan hệ giữa Việt Nam và EU.
Nhật Bản
Cuộc cải cách dân chủ và cuộc khôi phục kinh tế ở Nhật Bản (1945 - 1952)
- Sau năm 1945, Nhật Bản gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề: gần 3 triệu người chết và mất tích, trên 13 triệu người thất nghiệp, đói nghèo, lạm phát thường xuyên nổ ra,... Nhật Bản còn bị quân đội Mĩ chiếm đóng theo chế độ quân quản.
- Về chính trị, trong thời gian này, Bộ chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh (viết tắt là SCAP) đã thẳng tay loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt, bộ máy chiến tranh ở Nhật và xét xử bọn tội phạm chiến tranh,... Năm 1947, Bộ chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh soạn thảo và ban hành Hiến pháp mới, xác lập chế độ quân chủ lập hiến để thay thế cho Hiến pháp Minh Trị năm 1898, nhưng trên thực tế Nhật đi theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản. Theo Hiến pháp, Nhật Bản phải cam kết từ bỏ chiến tranh, không có quân đội thường trực, chỉ có lực lượng cảnh sát đảm bảo trật tự trong nước.
- Về kinh tế, SCAP tiến hành những cải cách: kinh tế, xã hội một cách khẩn trương với 3 nội dung lớn: Một là, giải thể các Đaibátxư và cổ phần hóa nền kinh tế. Hai là, cải cách ruộng đất (quy định địa chủ sở hữu không quá 3 héc ta ruộng, còn lại đem bán cho nông dân canh tác). Ba là, dân chủ hóa lao động thông qua ban hành và thực hiện các đạo luật về lao động “Luật chống độc quyền”, “Luật công đoàn”,... Dựa vào sự nỗ lực của bản thân và nguồn viện trợ của Mĩ, đến những năm 1950 - 1951, kinh tế của Nhật Bản đã được phục hồi và đạt mức trước chiến tranh.
Sự phát triển kinh tế của Nhật Bản (1952 - 2000)
- Từ năm 1952 đến 1973, kinh tế Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng cao liên tục, nhiều năm liền đạt tới hai con số (từ 1960 đến năm 1969 đạt xấp xỉ 11%). Từ năm 1968, Nhật Bản vươn lên trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới (cùng với Mĩ và Tây Âu): Năm 1968, kinh tế Nhật vượt qua 5 nước Tây Đức, Italia, Canada, Anh và Pháp, vươn lên hàng thứ hai trong thế giới tư bản (sau Mĩ). Nếu năm 1950, GNP của Nhật đạt 20 tỉ USD (bằng 1/17 của Mĩ) thì đến 1968 là 183 tỉ USD, bằng 1/5 của Mĩ). Với tốc độ phát triển như vậy, người ta gọi giai đoạn 1960 - 1973 là “sự phát triển thần kì” của Nhật Bản. Trong việc phát triển kinh tế, Nhật Bản rất coi trọng đến giáo dục và khoa học - kĩ thuật, thường xuyên mua các bằng phát minh, sáng chế của nước ngoài để ứng dụng vào sản xuất. Nhiều mặt hàng nổi tiếng của Nhật Bản được cả thế giới biết đến như ti vi, tủ lạnh, máy điều hòa không khí, ô tô,... Nhật Bản chú trọng xây dựng các công trình thế kỉ, tiêu biểu là đường ngầm dài 54 km nối hai hòn đảo Hônsu và Sicôcư, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.
Nền kinh tế Nhật Bản có “sự phát triển thần kì” như vậy là do những nhân tố sau:
+ Con người được coi là vốn quý nhất, nhân tố quyết định hàng đầu (người Nhật rất cần cù, chịu khó, tiết kiệm và có khả năng tiếp cận tốt những thành tựu của khoa học - kĩ thuật).
+ Vai trò lãnh đạo, quản lí của Nhà nước đối với nền kinh tế vĩ mô rất hiệu quả.
+ Các công ty năng động, có tầm nhìn, quản lí tốt, có tiềm lực, sức cạnh tranh cao.
+ Áp dụng thành công những thành tựu của khoa học - kĩ thuật trong sản xuất.
+ Nhật Bản chi phí cho quốc phòng ít (không quá 1% GDP), nên có điều kiện tập trung phát triển kinh tế.
+ Nhật Bản biết tận dụng tốt những yếu tố thuận lợi bên ngoài để phát triển (tiền viện trợ của Mĩ, các đơn đặt hàng của Mĩ trong chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) và Việt Nam (1954 - 1975)),...
Tuy vậy, Nhật Bản cũng gặp không ít khó khăn, thử thách: Lãnh thổ Nhật Bản nghèo tài nguyên, khoáng sản, các ngành công nghiệp của Nhật muốn phát triển phải dựa vào các nguồn tài nguyên từ bên ngoài; Cơ cấu kinh tế của Nhật không cân đối, thiếu tập trung (tập trung chủ yếu ở ba trung tâm Tôkiô, Ôsaka và Nagôia); Sự cạnh tranh gay gắt của các nền kinh tế Mĩ, Tây Âu và các nước công nghiệp mới (NICs).
Từ năm 1973, do tác động của khủng hoảng năng lượng, sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế Mĩ, Tây Âu và các nước NICs nên kinh tế Nhật Bản phát triển không ổn định, thường xuyên có những đợt suy thoái ngắn. Song đến nửa sau những năm 80 của thế kỉ XX, Nhật Bản vươn lên thành siêu cường tài chính số 1 thế giới, là chủ nợ lớn nhất thế giới. Bước sang đầu thập kỉ 90, tuy kinh tế Nhật thường xuyên có đợt suy thoái, nhưng Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới. Năm 2000, thu nhập bình quân đầu người của Nhật Bản là 37.408 USD. Trong lĩnh vực khoa học - kĩ thuật, Nhật Bản đã phóng được 49 vệ tinh khác nhau và có sự hợp tác hiệu quả với Mĩ và Nga trong lĩnh vực này.
Tuy là một cường quốc kinh tế, nhưng Nhật Bản rất coi trọng giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc.
Tình hình chính trị, xã hội và chính sách đối ngoại của Nhật Bản (1945 - 2000).
Từ năm 1955 đến năm 1993, ở Nhật Bản, Đảng Dân chủ tự do cầm quyền. Dưới thời Thủ tướng Ikêđa Hayato (1960 - 1964), Nhật Bản chủ trương xây dựng “Nhà nước phúc lợi chung”, tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi trong vòng 10 năm (1960 - 1970). Từ năm 1993 đến năm 2000, các đảng đối lập hoặc liên minh với nhau cầm quyền, tình hình xã hội có phần không ổn định.
Về đối ngoại, những năm đầu sau chiến tranh, Nhật Bản hoàn toàn lệ thuộc vào Mĩ về chính trị, quân sự. Tháng 9 - 1951, Nhật Bản kí với Mĩ Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật (còn gọi là Hiệp ước hòa bình Xan Phranxixcô), chấm dứt chế độ chiếm đóng của quân đội Đồng minh và khôi phục chủ quyền cho người Nhật. Trong bối cảnh “chiến tranh lạnh”, các giới cầm quyền Nhật Bản chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ, thông qua Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật (9 - 1951). Theo hiệp ước này, Nhật Bản chấp nhận là “cái ô” bảo hộ hạt nhân của Mĩ, để cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản. Giai đoạn này, Nhật Bản cũng ủng hộ Mĩ trong chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953).
Từ năm 1952, chính sách đối ngoại của Nhật Bản vẫn là liên minh chặt chẽ với Mĩ, nhưng đã có sự điều chỉnh căn bản. Năm 1956, Nhật Bản đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô và cũng trong năm này trở thành thành viên của Liên hợp quốc. Từ nhiều thập kỉ qua, các giới cầm quyền Nhật Bản đã thi hành một chính sách đối ngoại mềm mỏng và tập trung vào phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại như trao đổi buôn bán, tiến hành đầu tư và viện trợ cho các nước, đặc biệt với các nước Đông Nam Á (bằng các học thuyết Phucưđa, năm 1977 và học thuyết Kaiphu, năm 1991). Hai học thuyết này đã đánh dấu “sự trở về châu Á” của Nhật Bản. Trước đó, Nhật Bản cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (9 - 1973) và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc (1978).
Từ sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản nỗ lực vươn lên trở thành một cường quốc chính trị để tương xứng với sức mạnh siêu cường kinh tế của mình.