Chương mười: Việt Nam từ năm 1954 - 1975

Tình hình và nhiệm vụ cách mạng nước ta sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương

- Miền Bắc: Ngày 1 - 1 - 1955, Trung ương Đảng và Chính phủ ra mắt nhân dân Thủ đô Hà Nội. Ngày 16 - 5 - 1955, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo Cát Bà. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.

- Miền Nam: Giữa tháng 5 - 1956, Pháp rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam, nhưng vẫn còn nhiều điều khoản của Hiệp định Giơnevơ có liên quan đến trách nhiệm của họ chưa được thi hành như tổ chức tổng tuyển cử tự do, thống nhất hai miền Nam - Bắc Việt Nam. Mĩ thay thế vị trí của Pháp ở miền Nam, ép Pháp trao quyền cai trị miền Nam cho Ngô Đình Diệm.

Như vậy, tình hình nước ta sau Hiệp định Giơnevơ là: Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam lúc này là vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên CNXH, vừa phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.

Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo quan hệ sản xuất ở miền Bắc (1954 - 1960)

a) Hoàn thành cải cách ruộng đất.

Cải cách ruộng đất là cuộc cách mạng nhằm tiếp tục giải quyết vấn đề ruộng đất, xoá bỏ những tàn dư của chế độ phong kiến, chia ruộng đất cho dân cày nghèo.

Cải cách ruộng đất được tiến hành làm 5 đợt, bắt đầu từ cuối năm 1953, kết thúc vào năm 1956.

- Kết quả: Tịch thu 81 vạn hecta ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 1,8 triệu nông cụ từ tay giai cấp địa chủ đem chia cho 2 triệu hộ nông dân lao động. Nhưng chúng ta cũng đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng như đấu tố tràn lan, thô bạo, đấu tố cả những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng; quy nhầm một số nông dân, cán bộ, đảng viên thành địa chủ. Đảng và Chính phủ đã kiên quyết sửa chữa sai lầm trong năm 1957, nhờ đó mà hậu quả của sai lầm được hạn chế.

- Ý nghĩa: làm cho bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều thay đổi, khối công nông liên minh được củng cố.

b) Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.

Đây là nhiệm vụ tất yếu trong thời kì đầu sau khi chiến tranh kết thúc.

- Kết quả: Sản lượng lương thực đạt trên 4 triệu tấn, tăng hơn 1,5 triệu tấn so với năm 1939. Nạn đói kinh niên ở miền Bắc căn bản được giải quyết. Nhà nước đã khôi phục và mở rộng hầu hết các nhà máy, xí nghiệp bị phá hỏng, xây dựng thêm một số nhà máy mới. Thủ công nghiệp, thương nghiệp được nhanh chóng khôi phục, đảm bảo cung cấp nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân và giải quyết phần nào việc làm cho người lao động. Sửa chữa và làm mới đường ô tô, khôi phục đường sắt, mở rộng nhiều hải cảng.

- Ý nghĩa: Nền kinh tế miền Bắc bị chiến tranh tàn phá nặng nề được phục hồi, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện từng bước, góp phần củng cố miền Bắc, ủng hộ và cổ vũ cho cách mạng miền Nam.

c) Cải tạo quan hệ sản xuất

Cải tạo quan hệ sản xuất theo con đường XHCN là thực hiện nhiệm vụ của cuộc cách mạng XHCN về quan hệ sản xuất, là sửa lại, sắp xếp lại nền kinh tế.

Trong 3 năm (1958 - 1960), miền Bắc đã tiến hành cải tạo trong tất cả các ngành kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, trong đó khâu chính là hợp tác hoá nông nghiệp. Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lí dân chủ; từng bước đưa người nông dân vào làm ăn tập thể, đi từ tổ đổi công lên hợp tác xã bậc thấp, đến bậc cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Những thợ thủ công, thương nhân, các nhà tư sản được đưa vào làm ăn tập thể trong các thành phần kinh tế hợp tác xã, công tư hợp doanh và quốc doanh.

Đấu tranh chống chế độ Mĩ - Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng (1954 - 1959)

Đặc điểm cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam thời gian này diễn ra dưới hình thức những cuộc đấu tranh chính trị nhằm gìn giữ hoà bình, đòi Mĩ - Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, chống trò hề “trưng cầu dân ý”, “bầu cử quốc hội” riêng rẽ của Mĩ - Diệm, chống khủng bố, đàn áp, chống chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của Mĩ - Diệm, đòi quyền tự do dân sinh, dân chủ. Tiêu biểu và mở đầu là “phong trào hoà bình” của trí thức và các tầng lớp nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, bắt đầu từ tháng 8 - 1954.

“Phong trào hoà bình” bị Mĩ - Diệm đàn áp, khủng bố ác liệt. Có thể nói trong những năm 1957 - 1959, cách mạng miền Nam gặp phải những khó khăn và tổn thất to lớn. Hàng vạn cán bộ đảng viên bị sát hại, hàng chục vạn đồng bào yêu nước bị tù đày, nhưng cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam nhằm gìn giữ hoà bình vẫn tiếp tục dâng cao, nhất là từ những năm 1958 - 1959, phong trào có những thay đổi về mục tiêu, hình thức đấu tranh từ đấu tranh chính trị, hoà bình chuyển sang dùng bạo lực, tiến hành đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang, chuyển dần lên thành phong trào cách mạng “Đồng khởi” (1959 - 1960).

Phong trào “Đồng khởi” (1959 - 1960)

- Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp (1 - 1959) đã chỉ ra con đường không thể nào khác cho cách mạng miền Nam là dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ chính quyền Mĩ - Diệm.

- Phương pháp đấu tranh ở miền Nam là tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Hướng phát triển của cách mạng miền Nam là từ khởi nghĩa từng phần, tiến lên nhất loạt nổi dậy đập tan chính quyền địch.

- “Đồng khởi” có nghĩa là đồng loạt khởi nghĩa, là cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân miền Nam. Cuộc khởi nghĩa từng phần diễn ra ở nông thôn miền Nam lúc đầu lẻ tẻ, sau được Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 soi sáng đã bùng lên thành một cao trào, tiêu biểu là tỉnh Bến Tre, rồi lan rộng ra khắp Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đánh vào chế độ Mĩ - Diệm, giành quyền làm chủ.

- Phong trào “Đồng khởi” đã giáng một đòn nặng nề vào chế độ Mĩ - Diệm, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công liên tục và thời kì tạm thời ổn định của kẻ thù đã chấm dứt, chuyển sang khủng hoảng triền miên.

- Trong và sau “Đồng khởi”, lực lượng cách mạng ở miền Nam đã trưởng thành nhanh chóng. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời (20 - 12 - 1960) là một sự kiện quan trọng của cách mạng miền Nam. Cương lĩnh của Mặt trận (thực hiện theo đường lối của Đảng) có tác dụng tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước đứng lên chống Mĩ - Diệm, cô lập và phân hoá hơn nữa kẻ thù, đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ, hoà bình tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960)

Đại hội họp tại Thủ đô Hà Nội tháng 9 - 1960 đề ra nhiệm vụ cụ thể của cách mạng hai miền Nam - Bắc và cách mạng cả nước. Chỉ rõ vị trí, quan hệ giữa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có tính chất quyết định đối với sự phát triển của cách mạng nước ta, còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp tới sự nghiệp giải phóng miền Nam.

Khẳng định phải đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội: Phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí. Phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời phát triển công nghiệp địa phương, kết hợp xây dựng các xí nghiệp quy mô loại vừa với loại nhỏ, kết hợp kĩ thuật hiện đại với thô sơ.

Đại hội đề ra nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965).

Ý nghĩa của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III là: Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.

Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965)

Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965): Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, tiếp tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh xã hội.

Những thành tựu của miền Bắc đạt được sau kế hoạch 5 năm:

- Công nghiệp: Giá trị sản lượng ngành công nghiệp nặng (năm 1965) tăng 3 lần so với năm 1960.

100 cơ sở sản xuất mới được xây dựng hoặc mở rộng, đã sản xuất nhiều mặt hàng phục vụ dân sinh, quốc phòng. Công nghiệp nhẹ cùng với tiểu thủ công nghiệp đã giải quyết 80% hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân.

- Hệ thống thủy nông phát triển, trong đó có công trình Bắc - Hưng - Hải.

- Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, liên tỉnh, liên huyện; đường sông, đường hàng không được củng cố.

- Hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học phát triển nhanh. Năm học 1964 - 1965, miền Bắc có hơn 2,6 triệu học sinh, tăng gấp 2 lần so với năm học 1960 - 1961.

Xây dựng khoảng 6 000 cơ sở y tế; cơ bản xóa bỏ được một số dịch bệnh ở miền Bắc.

Tóm lại: Những thành tựu mà miền Bắc đạt được sau kế hoạch 5 năm đã giúp miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng miền Nam, làm tốt nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Trong 5 năm (1961 - 1965), một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, thuốc men được chuyển vào chiến trường miền Nam. Nhiều cán bộ, chiến sĩ được đưa vào chiến trường tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng.

Những thành tựu trên đã tạo cho miền Bắc cơ sở chính trị, tinh thần và vật chất để tự bảo vệ, liên tiếp đánh thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ sau này.

Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965) của đế quốc Mĩ ở miền Nam

- Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đã đẩy chính quyền Sài Gòn vào thời kì khủng hoảng triền miên.

- Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã làm sụp đổ từng mảng lớn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

Trước tình hình đó, tháng 1 - 1961, Kennơđi lên làm Tổng thống, chính thức công bố học thuyết mới của mình và chọn Việt Nam làm nơi thí điểm chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.

Tháng 5 - 1961, Chính phủ Mĩ chính thức phê chuẩn chính sách đối với Việt Nam là: Tăng cường và mở rộng quyền điều hành tác chiến, chỉ huy yểm trợ của phái đoàn cố vấn quân sự Mĩ, giúp Diệm xây dựng quân đội, tăng cường mở rộng, cải tiến, trang bị và huấn luyện quân đội, coi đó là công cụ chủ yếu để chống chiến tranh du kích, khẩn trương bình định, lập “ấp chiến lược” hòng dồn hơn 10 triệu nhân dân miền Nam vào đó để thực hiện “tát nước bắt cá”, cô lập, tiến tới tiêu diệt cách mạng miền Nam, đẩy mạnh các hoạt động chiến tranh phá hoại chống lại miền Bắc. Công cụ để tiến hành chiến tranh là lực lượng quân sự người Việt do Mĩ trang bị và chỉ huy, tiền bạc, vũ khí, trang bị của Mĩ là công cụ chủ yếu của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.

Mĩ quyết định tăng gấp hai lần viện trợ quân sự cho Diệm, thiết lập Bộ chỉ huy quân sự Mĩ ở miền Nam (MACV), thành lập Bộ tư lệnh đặc biệt Mĩ. Lực lượng không quân hậu cần cũng dần dần được đưa vào miền Nam. Năm 1962, kế hoạch Stalây - Taylo được tiến hành toàn diện, lực lượng yểm trợ chiến đấu của Mĩ đã lên tới 11 000 quân, lực lượng quân đội của Diệm lên tới 35 vạn quân.

Việc thay thế chiến lược chiến tranh của Mĩ - Diệm đánh dấu thời kì tạm thời ổn định của chế độ Mĩ - Diệm đã qua, thời kì khủng hoảng liên tiếp bắt đầu. Tình hình trên đặt ra cho nhân dân miền Nam những khó khăn, thử thách to lớn.

Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ

Cuộc chiến đấu của quân dân ta chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận), kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị, nổi dậy với tiến công trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị) làm lung lay từng bước ba chỗ dựa của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” - đó là quân đội và chính quyền Sài Gòn (công cụ), ấp chiến lược (xương sống) và đô thị (hậu cứ).

Quân dân miền Nam đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị và binh vận đã làm tan vỡ từng mảng quân đội Sài Gòn - công cụ của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với chiến thắng tiêu biểu ở Ấp Bắc (1 - 1963), Bình Giã (đông - xuân 1964 - 1965).

Trận Ấp Bắc là trận đầu tiên giữa đồng bằng, Quân giải phóng với lực lượng ít hơn địch 10 lần đã đập tan cuộc càn quét lớn của địch có sức cơ động cao. Chiến thắng Ấp Bắc đã gây tiếng vang lớn, đánh dấu sự phát triển về chất của cách mạng miền Nam, kết hợp ba lực lượng: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích; kết hợp ba hình thức đấu tranh: chính trị, quân sự, binh vận. Quân dân Ấp Bắc (Mỹ Tho) đã đánh bại chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của đối phương, đẩy chúng vào tình trạng khủng hoảng về chiến thuật.

Cuối năm 1964 đầu năm 1965, ta mở chiến dịch Bình Giã (Bà Rịa). Đây là lần đầu tiên ta huy động một lực lượng lớn khoảng 7000 quân mở chiến dịch trên một địa bàn rộng thuộc 4 tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận. Sau hơn một tháng chiến đấu, ta tiêu diệt 1755 tên địch, phá huỷ nhiều xe, bắn rơi nhiều máy bay, thu nhiều vũ khí... Chiến thắng Bình Giã mở ra một thời kì mới - thời kì kết hợp chiến tranh du kích với chính quy, tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, thời kì có thể tiêu diệt được những đơn vị chủ lực của quân đội Sài Gòn.

Cuộc chiến đấu phá ấp chiến lược diễn ra vô cùng gay go ác liệt, nhiều ấp địch phải lập đi lập lại hàng chục lần. “Ấp chiến lược” - xương sống của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt ” bị phá sản về căn bản. Các trận tiến công quân sự cùng với nổi dậy của quần chúng đã phá tan từng mảng ấp chiến lược. Đến cuối năm 1962, mặc dù Mĩ và chính quyền Sài Gòn dùng nhiều thủ đoạn nham hiểm để dồn dân lập ấp chiến lược nhưng cũng chỉ thực hiện được một phần.

Chính quyền Sài Gòn - chỗ dựa chủ yếu của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ngày càng tan rã rối loạn. Nhiều cuộc đấu tranh của tăng ni, phật tử, sinh viên, học sinh ở các đô thị, đặc biệt ở Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn góp phần cùng với thắng lợi quân sự làm lung lay chế độ Ngô Đình Diệm, dẫn đến cuộc đảo chính lật đổ anh em Diệm - Nhu ngày 1 - 11 - 1963. Nội bộ chính quyền Sài Gòn lục đục, liên tiếp xảy ra hơn 10 cuộc đảo chính. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” thất bại hoàn toàn.

Chiến lược” Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ ở miền Nam

Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam (1965 - 1968). Để hỗ trợ cho “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ mở rộng chiến tranh bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc.

Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” được tiến hành bằng quân Mĩ, quân đồng minh, quân đội Sài Gòn, trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng, không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị. Tuy quân Mĩ tham gia trực tiếp, đây vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới vì quân đội Sài Gòn vẫn giữ vai trò quan trọng. Mĩ nhảy vào cuộc chiến nhằm cứu quân đội Sài Gòn khỏi sụp đổ, tiếp tục thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.

Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” có quy mô mở rộng ra cả miền Bắc, tính chất ác liệt thể hiện ở mục tiêu vừa nhằm tiêu diệt quân chủ lực, vừa “bình định” miền Nam, phá hoại miền Bắc; sử dụng vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh cả trên bộ, trên không và trên biển.

Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ

Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt và gian khổ vì nhân dân ta phải chống lại cuộc chiến tranh xâm lược được tăng cường và mở rộng ra cả nước, chống lại quân viễn chinh Mĩ và quân đồng minh 5 nước có lực lượng đông, mạnh, được trang bị hiện đại. Nhưng nhờ có đường lối kháng chiến đúng, quyết tâm chống Mĩ cao, có sức mạnh tổng hợp to lớn cả tiền tuyến và hậu phương, nên quân dân ta liên tiếp giành những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, mở đầu là chiến thắng Vạn Tường (8 - 1965), tiếp đó là thắng lợi đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (đông - xuân 1965 - 1966 và đông - xuân 1966 - 1967) của địch, đỉnh cao thắng lợi là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968).

Trên mặt trận chống “bình định”: Quân dân ta giành thắng lợi lớn, phá tan từng mảng “ấp chiến lược”, “ấp tân sinh”.

Phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng đã phát triển sôi nổi ở nông thôn và đô thị, trực tiếp chống cả Mĩ và quân các nước thân Mĩ. Vùng giải phóng được mở rộng. Mặt trận dân tộc giải phóng ngày càng được nhiều nước trên thế giới công nhận là người đại diện chân chính của nhân dân miền Nam và đã đặt cơ quan đại diện ở nhiều nước trên thế giới.

Trên đà thắng lợi lớn của quân và dân ta ở miền Nam, của cả nước, tháng 11 - 1967, Ban Chấp hành Trung ương chủ trương mở thêm mặt trận đấu tranh ngoại giao.

Sự phối hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao đã tạo ra những thuận lợi cho cuộc kháng chiến của chúng ta tiếp tục tiến lên mạnh mẽ hơn.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Đến cuối năm 1967 và đầu năm 1968, tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam đang thay đổi có lợi cho ta, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là các đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quân Mĩ, quân đồng minh, đánh mạnh vào chính quyền Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược bất ngờ vào khắp các đô thị trong dịp Tết Mậu Thân và kéo dài trong năm 1968, diễn ra theo 3 đợt, từ đêm 30 - 1 đến ngày 25 - 2; tháng 5 và 6, tháng 8 và 9 - 1968, ở 37 tỉnh trong tổng số 44 tỉnh.

Cuộc tập kích chiến lược Tết Mậu Thân là một đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông, cơ sở của chúng ở thành thị mạnh nên sau một thời gian lúng túng, địch đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng và phản kích lại. Ta không kịp đánh giá tình hình và yếu tố thời cơ để điều chỉnh kế hoạch nên trong hai đợt tiến công tiếp, ta gặp nhiều khó khăn.

Mục tiêu cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của ta không thực hiện được trọn vẹn, lực lượng bị tổn thất lớn.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam có ý nghĩa lịch sử to lớn. Nó đã mở ra bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, làm lung lay ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng thay đổi chiến lược chiến tranh ở miền Nam bằng chính sách “phi Mĩ hóa”, ngừng ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán ngoại giao ở Pari để bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh xâm lược của Mĩ ở miền Nam.

Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ vừa sản xuất (1965 - 1968)

Cuối năm 1964 đầu năm 1965, đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc. Ngày 5 - 8 - 1964, chính quyền Giônxơn dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ cho máy bay bắn phá một số nơi dọc bờ biển miền Bắc ngày 5 - 8 - 1964.

Chiến dịch ném bom bắn phá nhiều nơi trong đất liền miền Bắc ngày 7 - 2 - 1965 đã mở đầu chính thức cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất.

Âm mưu và thủ đoạn của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc là nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc - hậu phương lớn của miền Nam, ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.

Do phải sản xuất trong điều kiện chiến tranh phá hoại nên miền Bắc phải chuyển hướng cho phù hợp với thời chiến sao cho không bị tàn phá, không bị thiệt hại về người và của. Phải thực hiện quân sự hóa toàn dân, triệt để sơ tán, phân tán, xây dựng kinh tế với quy mô phù hợp, đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp.

Nhân dân miền Bắc hễ thấy địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu. Khi bình thường thì toàn dân sản xuất.

Trong chiến đấu và sản xuất, ở miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước đã lập thành tích to lớn trong sản xuất và chiến đấu. Trong hơn 4 năm từ 1964 đến 1968, miền Bắc đã bắn rơi, phá huỷ 3 243 máy bay, bắn cháy và chìm 143 tàu chiến, buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày 1 - 11 - 1968.

Nông nghiệp: Diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã ở nhiều địa phương đạt 5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động trên 1 hécta diện tích gieo trồng.

Năng lực sản xuất một số ngành công nghiệp được giữ vững. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng phát triển.

Giao thông vận tải được đảm bảo thường xuyên thông suốt.

Văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, văn học, nghệ thuật phát triển mạnh.

Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bắc đã được xác định là hậu phương, và từ khi chiến tranh xâm lược của Mĩ mở rộng ra cả nước, miền Bắc được xác định là hậu phương lớn. Trong bất cứ tình huống nào, miền Bắc cũng phải thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn, chi viện theo yêu cầu về sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Nguồn nhân lực, vật lực từ hậu phương miền Bắc đưa vào chiến trường miền Nam qua hai tuyến đường chiến lược trên bộ và trên biển trong 4 năm (1964 - 1968) tăng gấp 10 lần so với thời kì trước.

Nguồn nhân lực, vật lực của hậu phương miền Bắc chi viện cho miền Nam cùng với thắng lợi của quân dân miền Bắc trong sản xuất và chiến đấu đã góp phần quyết định vào thắng lợi trong chiến đấu chống “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.

Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ

Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” dưới thời Tổng thống Níchxơn được thực hiện ở miền Nam từ đầu năm 1969 thay cho chiến lược “Chiến tranh cục bộ” đã phá sản và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, thực hiện chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh”.

“Việt Nam hóa chiến tranh” được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hoả lực và không quân, hậu cần của Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn.

Quân Mĩ và quân đồng minh rút dần khỏi chiến tranh để giảm xương máu của người Mĩ trên chiến trường, tăng cường lực lượng quân đội Sài Gòn nhằm tận dụng xương máu người Việt Nam. Thực chất đó là tiếp tục thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt” của Mĩ.

Mĩ sử dụng quân đội Sài Gòn mở các cuộc hành quân xâm lược Campuchia năm 1970, tăng cường chiến tranh ở Lào năm 1971, thực hiện âm mưu “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.

Quân và dân ta ở miền Nam cùng với quân và dân Lào, Campuchia đã tiến công giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Quân đội Việt Nam với sự phối hợp của quân dân Campuchia đã chiến đấu đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân. Quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Lào đập tan cuộc hành quân mang tên “Lam Sơn 719”, đuổi hết quân Mĩ và quân Sài Gòn ra khỏi Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược Đông Dương.

Ở vùng nóng thôn đồng bằng, rừng núi, ven đô thị miền Nam, phong trào chống chương trình bình định, phá “ấp chiến lược” giành lại quyền làm chủ đã phát triển mạnh mẽ, giành lại 3 600 ấp với 3 triệu dân. Chính quyền cách mạng đã cấp cho nông dân trên 1,6 triệu hecta ruộng đất.

Ở đô thị, phong trào quần chúng, nhất là phong trào học sinh, sinh viên nổ ra liên tục, rầm rộ.

Cuộc tiến công chiến lược năm 1972

Trên đà thắng lợi, quân dân miền Nam mở cuộc tiến công chiến lược 1972. Mở đầu cuộc tiến công, ngày 30 - 3 - 1972, quân ta đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tấn công chủ yếu rồi phát triển rộng ra khắp chiến trường miền Nam. Trong thời gian ngắn, quân ta đã chọc thủng 3 phòng tuyến mạnh của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu 20 vạn quân Sài Gòn, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn và đông dân.

Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng một đòn nặng nề vào quân đội Sài Gòn (công cụ chủ yếu) và “Quốc sách bình định” (“xương sống” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”), buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược - tức là thừa nhận thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương

Nhiệm vụ của miền Bắc trong thời kì mới là khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Một yêu cầu cấp bách khác đặt ra với miền Bắc giai đoạn này là khắc phục những yếu kém trong nền kinh tế.

Chỉ trong vòng 3 năm, miền Bắc không những đã khôi phục mà còn phát triển các mặt nông nghiệp (sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968). Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng phát triển. Các tuyến giao thông chiến lược bị phá hoại nặng nề được khẩn trương khôi phục. Văn hóa, y tế, giáo dục nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân ổn định. Quốc phòng được củng cố và tiếp tục tăng cường.

Trước sự thất bại nặng nề của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam, ngày 16 - 4 - 1972, Níchxơn tuyên bố chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai chống miền Bắc. Ngày 5 - 9 - 1972, Níchxơn cho máy bay đánh phá và phong tỏa cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, các luồng lạch và vùng biển miền Bắc.

Nhờ chuẩn bị trước và với tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc đã chống trả địch ngay từ trận đầu. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các hoạt động sản xuất, xây dựng ở miền Bắc vẫn không bị ngừng trệ, giao thông vận tải được đảm bảo thông suốt.

Cuối năm 1972, đế quốc Mĩ tiến hành cuộc tập kích bằng không quân chiến lược (máy bay B52) vào Hà Nội và Hải Phòng từ ngày 18 đến 29 - 12 - 1972 nhằm khuất phục nhân dân miền Bắc và hỗ trợ cho mưu đồ mới của cuộc đấu tranh ngoại giao ở Pari.

Quân dân miền Bắc đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” bắn rơi 81 máy bay B52 và F111 của Mĩ.

Trong 3 năm (1969 - 1971), khối lượng vật chất đưa vào chiến trường mỗi năm tăng gấp 1,6 lần so với năm trước đó. Năm 1972, miền Bắc đã động viên hơn 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang và đưa vào chiến trường Đông Dương nhiều đơn vị bộ đội được huấn luyện và trang bị đầy đủ.

Cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Hiệp định Pari 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam

Sau thắng lợi hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967, ta chủ trương mở thêm mặt trận tiến công ngoại giao nhằm tố cáo tội ác của đế quốc Mĩ, vạch trần luận điệu hoà bình bịp bợm của chúng, nêu cao tính chất chính nghĩa, lập trường đúng đắn của ta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận quốc tế.

Mục tiêu đấu tranh ngoại giao trước mắt của ta là đòi Mĩ chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, coi đó là điều kiện tiên quyết để đi đến thương lượng ở ban hội nghị.

Sau đòn bất ngờ của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân dân ta, Giônxơn đã phải ngừng ném bom bắn phá miền Bắc và chấp nhận họp bàn về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Ngày 25 - 1 - 1969, Hội nghị bốn bên về Việt Nam khai mạc chính thức ở Pari. Trải qua nhiều phiên họp chung công khai và nhiều cuộc tiếp xúc riêng, có lúc bị gián đoạn, đến ngày 27 - 1 - 1973, Hiệp định Pari được kí chính thức.

Nội dung cơ bản của Hiệp định Pari:

- Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân các nước đồng minh, phá hết các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam.

- Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.

- Các bên công nhận thực tế miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

Ý nghĩa của việc kí kết Hiệp định Pari: Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta đã giành thêm một thắng lợi to lớn, mở ra một bước ngoặt mới. Lực lượng so sánh trên chiến trường đã thay đổi, có lợi cho ta. Mĩ cút khỏi miền Nam, tạo điều kiện thuận lợi để ta tiến lên đánh bại quân đội Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam

Hàn gắn vết thương chiến tranh: Trong 2 năm 1973 - 1974 khôi phục xong các cơ sở kinh tế, các hệ thống thủy nông, các mạng lưới giao thông, các công trình văn hóa, giác dục, y tế. Trên một số mặt quan trọng của công nghiệp và nông nghiệp, sản xuất đã vượt mức năm 1964 và năm 1971 - hai năm đạt mức cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Chi viện cho miền Nam: Trong 2 năm 1973 - 1974, gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong đã vào chiến trường miền Nam. Miền Bắc đã đưa vào chiến trường 26 vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm. Ngoài nhiệm vụ phục vụ chiến đấu tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, miền Bắc còn có nhiệm vụ chuẩn bị cho việc tiếp quản và xây dựng vùng giải phóng về quốc phòng, kinh tế, giao thông vận tải, văn hoá, giáo dục, y tế.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975

Cuối năm 1974 - đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị đã quyết định năm 1975, tranh thủ thời cơ bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 diễn ra chủ yếu với 3 chiến dịch từ 4 - 3 đến 2 - 5 - 1975:

- Chiến dịch Tây Nguyên.

Ta tập trung chủ lực mạnh với vũ khí hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Ngày 10 - 3 - 1975, mở trận then chốt ở Buôn Ma Thuột giành thắng lợi lớn. Ngày 12 - 3, địch phản công để chiếm lại Buôn Ma Thuột nhưng không được. Hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn. Nguyễn Văn Thiệu phải ra lệnh rút quân khỏi Tây Nguyên. Đến ngày 24 - 3 - 1975, Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn được giải phóng. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.

- Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ 21 - 3 đến 29 - 3).

Phát hiện địch co cụm ở Huế, ngày 21 - 3, quân ta đánh thẳng vào căn cứ địch, chặn các đường rút lui của chúng, hình thành thế bao vây chúng trong thành phố. Ngày 26 - 3 giải phóng thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên.

Thành phố Đà Nẵng rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn địch bị dồn ứ về đây trở nên hỗn loạn, mất hết khả năng chiến đấu. Sáng 29 - 3, quân ta từ ba phía Bắc, Tây, Nam tiến thẳng vào thành phố, đến chiều thì chiếm toàn bộ Đà Nẵng.

Cùng thời gian trên, nhân dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây Nguyên và một số tỉnh ở Nam Bộ, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương và quân chủ lực, đã nổi dậy đánh địch giành quyền làm chủ.

- Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26 - 4 đến 30 - 4).

Ngày 14 - 4, chiến dịch giải phóng Sài Gòn được Bộ Chính trị quyết định mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh.

Trước khi bất đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn, quân ta tiến công Xuân Lộc và Phan Rang - tuyến phòng thủ của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông Bắc.

Chiều 26 - 4, quân ta nổ súng mở đầu chiến dịch, 5 cánh quân của ta vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch.

10 giờ 45 phút ngày 30 - 4, xe tăng của ta tiến vào Dinh Độc Lập. Tổng thống Chính phủ Sài Gòn Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Ngày 2 - 5, toàn bộ miền Nam hoàn toàn được giải phóng.

Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước

a) Nguyên nhân thắng lợi

- Có sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chiến đấu vì độc lập tự do.

- Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, anh hùng bất khuất, đoàn kết thống nhất, bền bỉ chiến đấu, thông minh sáng tạo, có lực lượng vũ trang hùng mạnh.

- Có chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc - hậu phương lớn của miền Nam, chi viện tích cực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn.

- Có sự đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, có sự đoàn kết, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế, kể cả nhân dân yêu chuộng hòa bình Mĩ.

b) Ý nghĩa lịch sử

- Đối với dân tộc ta, đây là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã quét sạch bóng quân xâm lược ra khỏi đất nước, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc và phong kiến tay sai. Tổ quốc ta đã được hoàn toàn độc lập, giang sơn ta thu về một mối, Nam Bắc sum họp một nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trên cả nước. Một kỉ nguyên mới trong lịch sử tiến hóa của dân tộc ta đã mở ra, kỉ nguyên cả nước độc lập đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước đã làm phá sản chiến lược của Mĩ ở Đông Nam Á, tác động mạnh mẽ đến tình hình nước Mĩ và thế giới.

- Chiến công của dân tộc ta mang tính thời đại sâu sắc. Việt Nam đã đi tiên phong trong cuộc đấu tranh làm sụp đổ hệ thống nô dịch của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.