I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Phan Châu Trinh (1872 – 1926), hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, quê ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Phước, huyện Tam Kì, tỉnh Quảng Nam). Ông đỗ Phó bảng, được bổ dụng một chức quan nhỏ, nhưng chỉ một thời gian ngắn đã bỏ quan, chuyên tâm vào sự nghiệp cứu nước. Trong những năm đầu của thế kỉ XX, Phan Châu Trinh là người đề xướng dân chủ, đòi bãi bỏ chế độ quân chủ sớm nhất ở Việt Nam. Hoạt động cứu nước của ông đa dạng, phong phú và sôi nổi ở trong nước và ở cả nước ngoài.

Phan Châu Trinh là người giỏi biện luận và có tài văn chương. Văn chính luận của ông rất hùng biện, đanh thép, thơ văn trữ tình đều thấm đẫm tinh thần yêu nước và dân chủ. Tác phẩm chính: Tây Hồ thi tập, Tỉnh quốc hồn ca, Xăng-tê thi tập (các tập thơ), Giai nhân kì ngộ (truyện thơ dịch),...

2. Bài thơ được sáng tác theo bút pháp lãng mạn, thể hiện một hình tượng người anh hùng cứu nước lẫm liệt, ngang tàng, chí khí.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Nhà tù Côn Đảo là nơi thực dân Pháp dùng để giam hãm, đày đoạ những người yêu nước ưu tú của ta. Trong môi trường khắc nghiệt, đập đá là công việc khổ sai mà những người tù phải làm.

Bài thơ nói về một con người với khẩu khí ngang tàng, vượt lên mọi thử thách gian nan bằng khí phách như một dũng sĩ thần thoại.

2. Ở bốn câu thơ đầu có sự kết hợp giữa miêu tả và biểu cảm, với những hình ảnh mang hai lớp nghĩa (nghĩa thực và nghĩa tượng trưng) tạo nên cả một tượng đài uy nghi, lẫm liệt biểu tượng cho tư thế, khí phách của người anh hùng cách mạng.

a) Lớp nghĩa thực (công việc đập đá) và lớp nghĩa tượng trưng (tư thế hiên ngang lẫm liệt của người tù yêu nước) hoà quyện vào nhau tạo nên hình tượng thơ.

b) Các hình ảnh mang hai lớp nghĩa:

– làm trai, đứng giữa đất Côn Lôn

– làm cho lở núi non

- xách búa, đánh tan, năm bảy đống

- ra tay, đập bể, mấy trăm hòn

c) Giá trị nghệ thuật của các hình ảnh mang hai lớp nghĩa:

- Làm trai gắn với quan niệm truyền thống về chí nam nhi: gánh vác trách nhiệm lớn, đầu đội trời chân đạp đất, hiên ngang, làm trụ cột... Nguyễn Công Trứ viết: Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây – Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Đứng giữa đất Côn Lôn: tác giả mượn hình ảnh tả không gian thực của việc đập đá để nói đến tư thế (đứng giữa) trượng phu sừng sững, lẫm liệt của người tù khổ sai – người anh hùng.

- Các hình ảnh trong ba câu tiếp theo vừa tả thực công việc đập đá vừa gợi ra vóc dáng, sức mạnh phi thường của một dũng sĩ (làm cho lở núi non, xách búa, đánh tan, năm bảy đống, ra tay, đập bể, mấy trăm hòn).

3. Tác giả bộc lộ trực tiếp những cảm xúc và suy nghĩ ở bốn câu thơ cuối.

a) Thể hiện vẻ đẹp tinh thần của người chiến sĩ cách mạng: khẩu khí ngang tàng, niềm tin và ý chí sắt đá không thể bị khuất phục.

b) Thế tương quan đối lập là cách thức để tác giả thể hiện cảm xúc:

- Đối lập giữa những thử thách gian khổ trường kì với sự bền bỉ, dẻo dai, kiên trung của người chiến sĩ: tháng ngày, mưa nắng / thân sành sỏi, dạ sắt son.

- Đối lập giữa chí lớn của người mưu đồ sự nghiệp lớn (vá trời) với những gian nan gặp phải khi lỡ bước.

- Bốn câu thơ toát lên một tinh thần lạc quan, tin tưởng vào chính mình, vào con đường chính nghĩa đã lựa chọn. Vẻ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc sức mạnh ở 4 câu thơ trước đã tôn hình tượng người anh hùng lên ngang tầm với hình tượng sử thi.

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Đọc diễn cảm bài thơ bằng giọng đọc hùng hồn, chắc khoẻ.

2. Cảm nhận về vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn của hình tượng nhà nho yêu nước qua hai bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác và Đập đá ở Côn Lôn:

- Cả hai bài thơ đều thể hiện khẩu khí của những bậc anh hùng khi sa cơ lỡ bước. Lời thơ phần nào nói lên cái “chí” của họ.

- Hai bài thơ đều toát lên vẻ đẹp của khí phách hào hùng, coi thường hiểm nguy; đồng thời giữ vững niềm tin sắt đá ở lí tưởng mà mình đã chọn.