Bài làm

Vượt thác được trích từ chương XI truyện Quê nội của nhà văn Võ Quảng. Con sông được nói đến là sông Thu Bồn thuộc tỉnh Quảng Nam. Cách mạng tháng Tám thành công, làng Hoà Phước xây dựng trường học cho con em. Dượng Hương Thư được cất cử đưa thuyền lên Dùi Chiêng mua gỗ đem về xây trường học. Đoàn đi Dùi Chiêng có bốn người: dượng Hương Thư, chú Hai Quân và hai thiếu niên là Cù Lao và Cục. Cảnh vượt thác Cổ Cò được miêu tả và cảm nhận qua cảm xúc và tâm hồn của Cục. Đây là lần đầu tiên trong đời, chú tham gia một chuyến lên rừng, vượt thác đầy háo hức và thú vị. Chất thơ trên trang văn Võ Quảng dào dạt qua cảnh Vượt thác này.

Cảnh xuất phát rất gợi. Thuyền trưởng – dượng Hương nhổ sào khi gió nồm vừa thổi. Hình ảnh cánh buồm rất đẹp, đầy khí thế: Cánh buồm nhỏ căng phồng. Đó là cánh buồm căng gió lộng. Con thuyền được nhân hoá đang nhớ núi rừng nên rẽ sóng lướt bon bon, như nóng ruột phải lướt cho nhanh để về cho kịp. Đó cũng là tâm trạng háo hức của chú bé Cục trong cuộc "viễn du" này.

Con thuyền ngược dòng, cảnh sắc thiên nhiên nối tiếp xuất hiện. Ngã ba sông chung quanh là những bãi dâu trải ra bạt ngàn đến những làng xa tít. Tác giả không nói đến chân trời, đến màu xanh, đến mênh mông của dòng sông mà ta vẫn cảm nhận được tất cả. Một miền quê trù phú trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa hiện ra, gợi lên sự ấm no thanh bình. Tâm hồn mỗi chúng ta bâng khuâng liên tưởng...

Gợi mở liên tưởng là một nét đẹp trong câu văn xuôi của Võ Quảng. Do đó, chất thơ từ cảnh vật, từ tâm hồn đồng hiện. Bé Cục nhìn thấy bao cảnh lạ. Những con thuyền xuôi dòng chất đầy cau tươi, dây mây, dầu rái. Có những thuyền chở mít, chở quế. Con sông Thu Bồn là mạch máu, là nguồn sống xứ Quảng. Vì chở đầy, chở nặng lâm thổ sản, nên thuyền nào cũng xuôi chậm chậm. Một cuộc sống ấm no, một miền rừng hào phóng... Càng ngược dòng sông, cảnh sắc sông núi càng đầy sức sống, hữu tình nên thơ. Vườn tược tốt tươi um tùm. Những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước. Cổ thụ được nhân hoá gợi tả vẻ đẹp hùng vĩ, thâm nghiêm của chốn đại ngàn rừng thiêng, rừng thẳm. Gần 200 năm về trước, một nữ sĩ tài ba đã viết:

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán

Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.

(Bà Huyện Thanh Quan)

Đã sắp đến chân thác rồi. Lòng sông như thắt lại. Tầm mắt người đi thuyền bị thu hẹp dần: Núi cao như đột ngột hiện ra chắn ngang trước mặt. Đó là lúc dượng Hương, chú Hải Quân, bé Cù Lao, bé Cục đã đưa con thuyền ngược dòng Thu Bồn đến Phường Rạnh. Mọi người, nhất là bé Cục đã Đi một ngày đàng học một sàng khôn, đã nhìn thấy bao cảnh lạ của quê hương.

Phần tiếp theo nói về cảnh vượt thác Cổ Cò.Cuộc vượt thác thực sự là một cuộc chiến đấu căng thẳng, dữ dội. Vốn giàu kinh nghiệm vượt thác băng ghềnh, vị thuyền trưởng sai nấu cơm ăn để được chắc bụng, phải chuẩn bị vì nước còn to, phải chống liền tay không phút hở. Vũ khí là con thuyền và ba chiếc sào tre đầu bịt sắt. Dòng thác thật đáng sợ: Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn. Chảy đứt đuôi rắn là cách nói so sánh của dân gian gợi tả dòng thác phóng từ cao xuống, nước chảy mạnh và xiết, cuồn cuộn như xoắn lại, như đứt tung ra. Dượng Hương Thư là người chỉ huy cuộc vượt thác trông thật đẹp, vẻ đẹp oai phong, gân guốc, mạnh mẽ. Người thì “đánh trần". Động tác rất nhanh và mạnh: có người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng soạc! Tư thế rất dẻo dai cường tráng: ghì chặt trên đầu vào, lấy thế trụ lại,... Chiếc sào cong lại. Dượng Hương Thư đã giúp cho chú Hai và thằng Cù Lao phóng sào xuống nước. Giữa dòng thác nước bị cản văng bọt tứ tung, ba thuỷ thủ đã chèo chống cật lực, mà có lúc thuyền vùng vằng chực trụt xuống, quay đầu chạy về lại Hoà Phước. Con thuyền được nhân hoá để cực tả cuộc vượt thác vô cùng gian truân, vất vả. Cả ba tay chèo rất thiện nghệ, phối hợp nhịp nhàng: Những động tác thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt. Nhanh như cắt là thành ngữ gợi tả sự nhanh nhẹn, mạnh mẽ, sắc bén; những con sào lao xuống, phóng xuống, rút lên liên tục rất nhanh và dứt khoát. Dượng Hương Thư được đặc tả qua hàng loạt chi tiết như những nét khắc, nét tạc: Các bắp thịt thì cuộn cuộn, hàm răng thì cắn chặt, quai hàm thì bạnh ra, cặp mắt thì nảy lửa,... Đó là hình ảnh một vị thuyền trưởng rất dũng mãnh, quyết đoán và tài ba, không chịu lùi bước trước dòng thác mạnh, đã làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên. Trong sinh hoạt đời thường, dượng Hương hiền lành, khiêm tốn: nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ. Cảnh vượt thác đã phát lộ thêm một nét đẹp tính cách của dượng. Tác giả Quê nội đã sử dụng hai hình ảnh so sánh: Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ để ca ngợi vẻ đẹp của một con người chân chính trong lao động. Và đó là cảm nghĩ, lòng kính trọng, sự ngưỡng mộ của bé Cục đối với dượng Hương Thư thân thiết của mình. Trong Quê nội, nhà văn Võ Quảng hai lần tả cảnh vượt thác băng ghềnh, cả hai lần đều ấn tượng. Sau nửa thế kỉ, đọc trong văn của Võ Quảng, tuổi thơ gần xa cảm thấy mình đang cùng Cù Lao và Cục ngược sông Thu Bồn, vượt thác, thăm thú sông núi đại ngàn xứ Quảng. Ta thấy, tác giả đã sống hồn nhiên, sống hết mình với tuổi thơ, với trang văn của mình.

Vượt qua thác Cổ Cò thì chiều tối. Một ngày vượt thác vất vả đã dần trôi qua. Chú Hai vứt sào, ngồi xuống thở không ra hơi. Dòng sông Thu Bồn ở vùng Trung Phước cứ chảy quanh co dọc những núi cao sừng sững. Sông như hẹp lại. Nước sông cuồn cuộn, không chảy băng băng mà là chảy quanh co như đang múa lượn. Một lần nữa, tác giả lại nói về cổ thụ tạo nên một so sánh – liên tưởng thú vị: Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp cúp nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía trước. Rừng xanh như đang vẫy gọi. Chốn đại ngàn với núi cao, thác hiểm không còn màu sắc huyền bí mà trở nên thân thiết, gắn bó với con người miền xuôi. Qua thác Cổ Cò là đến Trung Phước. Cảnh quan lại mở ra, trải dài trải rộng. Câu văn cũng nhẹ nhàng thanh thoát: Qua nhiều lớp núi, đồng ruộng lại mở ra... phải dừng chân để nghỉ ngơi: Đã đến Trung Phước. Câu văn rút ngắn lại còn bốn chữ đầy gợi cảm. Đoàn lữ hành tạm dừng chân trên đường đi lấy gỗ.

Tuổi thơ chúng ta, ai đã được một lần nhìn thấy thác, ai đã một lần được vượt thác? Đọc trang văn Vượt thác, ta cảm thấy mình đang cùng Cù Lao và Cục,... vượt thác trên sông Thu Bồn hơn nửa thế kỷ trước. Đó là cái tài và cái tâm của Võ Quảng - nhà văn, nhà thơ thân thiết của tuổi thơ. Chất thơ của vẻ đẹp hùng vĩ và hữu tình sông núi xứ Quảng mà trước đây cụ Phan Bội Châu từng ca ngợi là địa linh nhân kiệt. Chất thơ trong tâm hồn và chí khí con người: dũng cảm, phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu thiên nhiên,... Chất thơ thấm sâu vào từng câu văn, giọng văn: trong sáng, tươi đẹp, lúc thì mạnh mẽ hào hùng, lúc thì hồn nhiên thơ mộng. Cổ nhân có nói: Thi phú dục lệ (Thơ phú phải đẹp). Vượt thác là một trang văn đẹp trong giai phẩm Quê nội. Ta cảm thấy yêu thêm sông Thu Bồn, yêu thêm cuộc sống, yêu thêm thiên nhiên chú Cục và Cù Lao, yêu thêm đất Quảng. Tình yêu ấy làm ta lớn lên cùng trang văn Quê nội của Võ Quảng.