I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Đạo lí làm người đề cao năm đức: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

- Tinh thần dũng cảm thấm nhuần trong năm đức đó.

2. Thân bài:

* Giải thích: Thế nào là dũng cảm?

- Dũng cảm là có dũng khí dám đương đầu với sức chống đối, với nguy hiểm (Ví dụ: người chiến sĩ dũng cảm, hành động dũng cảm...).

* Chứng minh về lòng dũng cảm.

+ Trong văn chương:

- Lục Vân Tiên trong truyện thơ cùng tên của Nguyễn Đình Chiểu:

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

... Làm ơn há dễ trông người trả ơn.

- Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:

Anh hùng tiếng đã gọi rằng:

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!

+ Trong cuộc đời:

- Gương sáng dũng cảm của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đầu thế kỉ XX rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Vượt qua muôn trùng gian lao, thử thách, Bác đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ.

Bác xứng đáng là bậc đại nhân, đại trí, đại dũng.

- Gương sáng phấn đấu dũng cảm để vượt lên số phận bất hạnh : Chị Hướng Dương bị cụt hai chân vẫn trở thành người làm từ thiện nổi tiếng. Các anh Nguyễn Công Hùng, Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Đức,... nạn nhân chất độc da cam vẫn trở thành những chuyên viên vi tính giỏi, nhà báo giỏi...

- Lòng dũng cảm còn thể hiện qua những lời nói, hành động bình thường: một lời nhận lỗi, một hành động sửa sai, quyết tâm từ bỏ thói hư tật xấu...

3. Kết bài:

- Lòng dũng cảm là cơ sở để xây dựng nhân cách tốt đẹp.

- Lòng dũng cảm là kết quả của quá trình phấn đấu, rèn luyện lâu dài.

- Chúng ta đừng bao giờ để mất dũng khí trong cuộc đời.

II. BÀI LÀM

Theo Nho giáo, đạo lí làm người đề cao năm đức: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân để thành người tốt. Nghĩa để thu phục nhân tâm. Lễ để luyện tâm chính. Trí để được thành danh. Tín để đạt thành công. Tuy không nhắc đến dũng nhưng tinh thần của dũng lại thấm nhuần trong tất cả các đức tính nêu trên.

Vậy thế nào là dũng cảm? Dũng cảm là có dũng khí dám đương đầu với sức chống đối, với nguy hiểm. Ví dụ như: người chiến sĩ dũng cảm; dũng cảm bênh vực lẽ phải, bênh vực kẻ yếu thế. Tuy là một khái niệm trừu tượng nhưng lòng dũng cảm lại được thể hiện qua những lời nói, hành động cụ thể trong cuộc sống. Người xưa khẳng định: Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã. (Thấy việc nghĩa mà không làm là không có dũng khí). Mà như vậy thì chẳng xứng mặt anh hùng, cúi xuống thẹn đất, ngửa lên thẹn trời, bị người đời chê trách, phỉ nhổ.

Trong văn chương, có rất nhiều nhân vật tiêu biểu cho lòng dũng cảm, dám xả thân để cứu khốn, phò nguy. Lục Vân Tiên, chàng học trò trên đường lên kinh ứng thí, gặp bọn cướp Phong Lai đang ức hiếp dân lành đã một mình tả đột hữu xông, đánh tan bọn chúng, cứu Kiều Nguyệt Nga và nữ tì Kim Liên. Lúc Kiều Nguyệt Nga cảm tạ và muốn đền ơn, Lục Vân Tiên khẳng khái đáp:

Làm ơn há dễ trông người trả ơn...

Hành động quên thân vì nghĩa của Lục Vân Tiên là biểu hiện của dũng khí - một trong những đức tính cao quý của các bậc chính nhân quân tử trong xã hội phong kiến ngày xưa.

Từ Hải - nhân vật lí tưởng trong Truyện Kiều cũng là điển hình của lòng dũng cảm:

Giang hồ quen thói vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

Chàng không chấp nhận triều đình thối nát đương thời, nên đã lập ra:

Triều đình riêng một góc trời.

Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.

Đòi phen gió quét mưa sa,

Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam.

Phong trần mài một lưỡi gươm,

Những phường giá áo túi cơm sá gì!

Nghênh ngang một cõi biên thuỳ,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!

Từ Hải khẳng định phẩm chất cao quý của người anh hùng là trọng nghĩa:

Anh hùng tiếng đã gọi rằng:

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!

Chàng đã đưa Thuý Kiều từ thân phận tủi nhục của một kĩ nữ chốn lầu xanh lên địa vị cao sang của một bậc phu nhân quyền quý. Chàng giúp nàng báo ân, báo oán - cũng là thực hiện ước mơ công lí, chính nghĩa của nhân dân.

Đó là trong văn chương. Còn trong thực tế cuộc sống cũng có rất nhiều gương sáng về lòng dũng cảm. Điển hình là tấm gương của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, với lí tưởng cứu dân cứu nước và hai bàn tay trắng mà đã dám dấn thân vào con đường đầy gian lao, thử thách. Năm 1911, anh rời bến cảng Nhà Rồng, xuất dương để tìm chân lí cách mạng giải phóng dân tộc, giành chủ quyền độc lập, tự do cho Tổ quốc Việt Nam. Khi người bạn thân hỏi lấy tiền đâu mà đi, Nguyễn Tất Thành chìa hai bàn tay thay cho câu trả lời. Lòng yêu nước, khát vọng tự do đã tạo nên dũng khí và sức mạnh, giúp người thanh niên ấy đương đầu và vượt qua trăm ngàn khó khăn, nguy hiểm, để rồi ba mươi năm sau, người chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thành) đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tự do, độc lập. Viết về Bác Hồ thời kì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam trên đất Trung Quốc, Quách Mạt Nhược - một học giả nổi tiếng đã kính phục tôn vinh Bác là một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Còn nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác những vần thơ đẹp nhất để ca ngợi Bác Hồ - con người Việt Nam đẹp nhất :

Người trông gió bỏ buồm chọn lúc,

Nước cờ hay, xoay vạn kiêu binh

Lòng dũng cảm quyết không khuất phục,

Yêu hoà bình, đâu sợ chiến chinh!

(Theo chân Bác)

Lòng dũng cảm chính là chất thép trong khí tiết của người chiến sĩ cộng sản chân chính. Chất thép ấy có khi chứa đựng trong một ẩn dụ đầy tính nghệ thuật, một lời tự khuyên mình:

Ví không có cảnh đông tàn,

Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;

Nghĩ mình trong bước gian truân,

Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Hoặc trong những bài thơ đề cao tinh thần chiến đấu và ý chí chiến thắng không gì lay chuyển nổi của người tù cách mạng:

Thân thể ở trong lao,

Tinh thần ở ngoài lao;

Muốn nên sự nghiệp lớn,

Tinh thần càng phải cao.

Tinh thần dũng cảm còn được thể hiện qua lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ đất nước của hàng triệu thanh niên thời kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ. Họ đã rời đồng ruộng, nhà máy, trường học, tình nguyện vào mặt trận với quyết tâm tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.

Ngày nay, trong cuộc sống hoà bình, lòng dũng cảm được thể hiện qua quyết tâm làm cho dân giàu, nước mạnh. Nhiều trí thức ngày đêm nghiên cứu khoa học với nhiệt tình say mê, ý chí bền bỉ, phương pháp đúng đắn... để có được những cống hiến hữu ích cho xã hội. Công việc khoa học nghiêm túc đòi hỏi họ phải có lòng dũng cảm, chấp nhận đương đầu với mọi cản trở trên bước đường tìm tòi, sáng tạo. Dám nghĩ, dám làm, dám cống hiến sức lực, trí tuệ và tuổi thanh xuân cho khoa học, đó là dũng khí.

Có một danh nhân đã nói: Chiến thắng chính mình là chiến thắng khó khăn và vinh quang hơn cả. Đúng như vậy! Đầu thế kỉ XX, nhà giáo, nhà văn Nguyễn Bá Học đã khuyên nhủ thanh niên: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.

Người ngại núi e sông là người thiếu dũng khí, thiếu tự tin vào chính bản thân, chưa làm đã sợ thất bại. Mà như thế thì không bao giờ đạt được thành công trong cuộc đời. Những gương sáng kiên trì phấn đấu vượt lên số phận bất hạnh như chị Hướng Dương bị tai nạn giao thông cụt cả hai chân vẫn nhiệt tình làm công tác từ thiện giúp đỡ trẻ em khuyết tật. Như các anh Nguyễn Công Hùng, Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Đức, như các bạn Trương Thị Thương, Nguyễn Văn Thọ... (nạn nhân chất độc màu da cam) vẫn cố gắng học tập và làm việc để trở thành người hữu ích. Muốn đạt được mục đích ấy, họ phải nỗ lực gấp mười, gấp trăm lần người khoẻ mạnh.

Lòng dũng cảm còn thể hiện ở những lời nói, hành động rất bình dị, đời thường. Một lời xin lỗi khi mắc lỗi; biết sửa sai kịp thời; không quay cóp khi không thuộc bài; biết kiềm chế trước sự quyến rũ của những thói hư tật xấu... cũng rất cần đến lòng dũng cảm.

Như vậy, dũng cảm là yếu tố cần thiết để tạo nên nhân cách tốt đẹp. Nhưng lòng dũng cảm không tự nhiên mà có bởi nó là kết quả của một quá trình tu dưỡng, rèn luyện lâu dài. Nếu có lúc nào nản lòng nhụt chí, chúng ta hãy nhớ tới câu: Mất tiền là mất nhỏ, mất danh dự là mất lớn, mất can đảm là mất hết (Tục ngữ Đức). Các bạn ơi! Đừng bao giờ để mất dũng khí trong cuộc đời đầy thử thách này!