I. DÀN Ý

1. Mở bài:

+ Giải thích sơ lược về văn bia:

- Văn bia là bài văn khắc trên mặt bia đá, nhằm ghi chép lại những sự kiện trọng đại hoặc tên tuổi, sự nghiệp của những người có công đức lớn lao để lưu truyền cho hậu thế biết.

- Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba do tiến sĩ Thân Nhân Trung viết năm 1484 thời Hồng Đức, theo lệnh vua Lê Thái Tông.

- Hiền tài là nguyên khí của quốc gia là đoạn trích từ bài văn bia. Nội dung nhằm giải thích ý nghĩa và mục đích đúng đắn của việc dựng bia tiến sĩ: vừa là hình thức ghi công để tôn vinh tên tuổi của các bậc hiền tài, vừa là cách động viên để họ dồn hết sức lực và tâm huyết chăm lo cho quyền lợi của đất nước và dân tộc.

2. Thân bài:

* Nội dung đoạn trích:

+ Hiền tài có vai trò vô cùng quan trọng đối với vận mệnh đất nước.

- Tác giả đúc kết chân lí: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Vậy Hiền tài là gì? Hiền tài là người tài cao đức lớn, học rộng hiểu nhiều. Nguyên khí là gì? Nguyên khí là khí chất ban đầu làm nên sự sống và quá trình phát triển của sự vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là nền tảng làm nên sự sống còn và phát triển của xã hội và đất nước.

- Hiền tài là sự đúc kết tinh hoa của trời đất, của dân tộc ( Địa linh sinh nhân kiệt ). Vì thế nên Hiền tài là nguyên khí của quốc gia: nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp.

- Để chứng minh cho nhận xét của mình là đúng, tác giả nêu lên cung cách cư xử rất trân trọng của các bậc vua chúa xưa nay đối với hiền tài: Bồi dưỡng kén chọn nhân tài, ban thưởng tới mức cao nhất.

* Ý nghĩa to lớn của việc khắc bia đề tên các tiến sĩ đối với đương thời và hậu thế.

+ Tuy nhiên, đối xử trân trọng như thế vẫn chưa đủ, mà phải ghi tên họ vào bia đá để lưu danh muôn thuở.

+ Tác giả khẳng định việc dựng bia là đúng đắn và hết sức cần thiết, không phải là chuyện chuộng văn chương, ham tiếng hão...

- Ngoài ý nghĩa tôn vinh tên tuổi của các bậc hiền tài, ghi nhớ công lao của những người có đóng góp to lớn cho đất nước, dân tộc thì mục đích của việc dựng bia là để răn dạy lẽ phải, ngăn ngừa sự tha hoá biến chất của những người có tài, có chức quyền trong thiên hạ.

- Để những người tài trở thành hiền tài, thành nguyên khí quốc gia thì triều đình cần phải có chính sách đào tạo và sử dụng hiệu quả, phải có những điều răn dạy nghiêm khắc trước mắt và lâu dài. Bia đá sẽ là lời nhắc nhở hiển tài có ý thức rõ ràng hơn về trách nhiệm của mình đối với sự hưng vong của đất nước và dân tộc.

- Bài viết có kết cấu khép kín, mở đầu bằng việc khẳng định Hiền tài là nguyên khí của quốc gia và kết thúc bằng ý: ...vừa rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước.

3. Kết bài:

- Bằng phương pháp lập luận chặt chẽ và nghệ thuật sử dụng từ ngữ chính xác, bài viết của tác giả Thân Nhân Trung đã để lại cho người đời sau bài học thiết thực về cách nhìn nhận, đánh giá và sử dụng nhân tài.

- Nếu có chính sách phát hiện, đào tạo và đãi ngộ hiền tài đúng đắn và hợp lí thì sự nghiệp xây dựng, phát triển dân giàu nước mạnh mới mau chóng trở thành hiện thực.

II. BÀI LÀM

Văn bia là bài văn khắc trên mặt đá nhằm ghi chép lại những sự việc trong đại, hoặc tên tuổi, cuộc đời của những người có công đức lớn để lưu truyền đến muôn đời sau. Bia có ba loại chính: bia ghi công đức, bia ghi việc xây dựng các công trình kiến trúc lớn và bia lăng mộ.

Bia ghi công đức thường có ba phần: Phần thứ nhất là tự (kể), nêu lí do, quá trình làm bia, tiểu sử nhân vật được khắc vào bia; phần thứ hai (viết bằng văn vần) tóm lược nội dung tự sự ở trên để người đọc dễ ghi nhớ, phần này còn gọi là minh (ghi nhớ); phần thứ ba ghi ngày tháng, họ tên người làm bia (viết bằng văn xuôi). Dần dần, phần tự trở thành nội dung quan trọng nhất, thể hiện tư tưởng, quan điểm của người dựng bia.

Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba do tiến sĩ Thân Nhân Trung viết năm 1484 dưới thời Hồng Đức, theo lệnh vua Lê Thái Tông. Bài kí này giữ vai trò quan trọng như lời Tựa chung cho cả 82 tấm bia tiến sĩ được dựng ở nhà bia Văn Miếu (Hà Nội). Bài văn Hiền tài là nguyên khí của quốc gia được trích từ bài kí trên.

Nội dung cơ bản của bài văn này là giải thích ý nghĩa và mục đích của việc dựng bia tiến sĩ. Mục đích cơ bản nhất là tôn vinh những người hiền tài, có công lớn với đất nước, vừa để ghi công, vừa là một hình thức động viên khích lệ để họ dồn tâm huyết và sức lực hơn nữa vào việc chăm lo cho vận mệnh quốc gia. Bài kí có kết cấu giống như một bài Tựa, cũng là một văn bản chính luận với lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ, ngôn ngữ hàm súc, giàu ý nghĩa, có sức truyền cảm và thuyết phục rất lớn.

Bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia tuy là đoạn trích nhưng kết cấu rất hợp lí, rõ ràng, có thể chia làm hai đoạn:

Đoạn 1: Từ đầu... đến cao nhất : Hiền tài có vai trò vô cùng quan trọng đối với vận mệnh đất nước.

Đoạn 2: Phần còn lại: Ý nghĩa và tác dụng to lớn của việc khắc bia ghi tên các bậc hiền tài đối với người đương thời và các thế hệ sau.

Đoạn trích được mở đầu bằng lời lẽ thể hiện thái độ khiêm tốn của người viết: Tôi dẫu nông cạn vụng về, nhưng đâu dám từ chối, xin kính cẩn chắp tay cúi đầu mà làm bài kí...

Sau đó, ông nhận định về giá trị của người tài đức trong xã hội bằng một chân lí đã được đúc kết từ lâu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Hiền tài là người tài cao, học rộng và có đạo đức, Nguyên khí là khí chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát triển của sự vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là chất làm nên sự sống còn và phát triển của xã hội, đất nước. Người hiền tài là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của dân tộc. Người xưa đã nói: Địa linh sinh nhân kiệt. Là sự đúc kết của khí thiêng sông núi nên : Hiền tài là nguyên khí của quốc gia : nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.

Để chứng minh cho nhận xét của mình là đúng, Thân Nhân Trung nêu việc làm đã thành quy luật của vua chúa bao đời: Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất.

Bằng cách viết ngắn gọn, súc tích, tác giả đã nêu bật được vai trò quan trọng của hiền tài đối với vận mệnh quốc gia. Tuy nhiên, theo ý của bậc thánh minh thì những ưu đãi kể trên vẫn chưa đủ, mà phải làm bia đá khắc tên và công lao của các bậc hiền tài để lưu tiếng thơm muôn đời, để động viên những người mà triều đình đã và đang trọng dụng, đồng thời khích lệ kẻ sĩ nỗ lực hết mình, ra sức giúp vua, giúp nước:

Nay thánh minh lại cho rằng, chuyện hay việc tốt tuy có một thời lừng lẫy, nhưng lời khen tiếng thơm chưa đủ lưu vẻ sáng lâu dài, cho nên lại dựng đá đề danh đặt ở cửa Hiền Quan, khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua. Há chỉ là chuộng văn suông, ham tiếng hão mà thôi đâu. Ôi, kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh, phận thật nhỏ mọn mà được triều đình đề cao rất mực như thế, thì họ phải làm thế nào để tự trọng tấm thân mà ra sức báo đáp?

Ở phần thứ hai, tác giả khẳng định việc dựng bia tiến sĩ là đúng đắn và cần thiết, bởi ngoài ý nghĩa tôn vinh hiền tài, ghi nhớ công ơn người có công với dân tộc thì mục đích lâu dài và sâu sắc của việc dựng bia là răn dạy lẽ phải, ngăn ngừa sự tha hoá biến chất của những người có tài trong thiên hạ:

Hãy đem họ tên những người đỗ khoa này mà điểm lại. Có nhiều người đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục năm, được quốc gia tin dùng. Cũng không phải không có những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác, có lẽ vì lúc sống họ chưa được nhìn tấm bia này. Ví thử hồi đó được mắt thấy thì lòng thiện tràn đầy, ý xấu bị ngăn chặn, đâu còn dám nảy sinh như vậy được? Thế thì việc dựng tấm bia đá này ích lợi rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Thánh thần đặt ra đâu phải là vô dụng. Ai xem bia nên hiểu ý sâu này.

Nhân tài của đất nước trong các thời đại tuy không nhiều song cũng không quá hiếm hoi, nhưng để họ trở thành hiền tài, nguyên khí của quốc gia thì triều đình cần phải có những chính sách sử dụng hiệu quả. Tác giả đã đưa ra một số trường hợp tài mà không hiền và nêu lí do là bởi họ không được răn dạy, không có điều răn dạy trước mắt. Mục đích và ý nghĩa của việc dựng bia đá được tác giả nêu lên rất cụ thể. Tấm bia đá sẽ là lời nhắc nhở các bậc hiền tài có ý thức rõ ràng hơn về trách nhiệm của mình đối với sự hưng vong của đất nước.

Dựng bia ghi danh tiến sĩ là việc làm có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc, vì vậy, những lí lẽ, lập luận giải thích phải triệt để. Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã thực hiện xuất sắc điều đó. Ông giải thích rất rõ việc dựng bia không phải là chuyện chuộng văn suông, ham tiếng hão mà là một phương thức cần thiết để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Đó cũng là kế sách thu phục và sử dụng hiền tài lâu dài của các bậc minh quân.

Tuy vậy, lí do quan trọng nhất để bậc thánh minh quyết định đặt bia đá ở cửa Hiền Quan vẫn là để nêu cao vai trò quan trọng của hiền tài đối với dân tộc. Lối kết cấu khép kín của bài kí đã khẳng định điều đó. Bài kí mở đầu bằng câu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia và kết thúc với ý củng cố mệnh mạch cho nhà nước.

Bằng phương pháp lập luận chặt chẽ và nghệ thuật sử dụng từ ngữ chính xác, tác giả Thân Nhân Trung đã để lại cho người đời sau bài học thiết thực về cách nhìn nhận, đánh giá, sử dụng nhân tài đúng đắn và hợp lí. Biết phát hiện, đầu tư đào tạo và tôn trọng nhân tài - đặc biệt là hiền tài thì sự nghiệp dân giàu nước mạnh mới mau chóng trở thành hiện thực.