I. DÀN Ý

1. Mở bài:

* Vài nét về tác giả:

- Nguyễn Du (1765 - 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc phong kiến, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương.

- Sớm mồ côi cha mẹ nên Nguyễn Du đã phải trải qua cuộc sống khổ sở, cơ cực như dân thường. Nhiều lúc ông lâm vào cảnh đói không cơm, rét không áo, ốm không thuốc, thậm chí không chốn nương thân. Nhà thơ đã tiếp xúc với nhiều cảnh đời và số phận khác nhau. Những biến động lớn lao của gia đình và xã hội đã tác động sâu sắc tới con người cùng sự nghiệp sáng tác của ông.

- Cuộc đời Nguyễn Du gắn liền với hai sự kiện nổi bật: chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

- Sau khi ra làm quan, ông được cử đi sứ nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hoá Trung Hoa rực rỡ, phong phú và đa dạng.

- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du bằng cả chữ Hán và chữ Nôm đạt tới tầm cỡ của một thiên tài văn học. Về chữ Hán, có ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm, với tổng số 243 bài. Về chữ Nôm: nhiều bài văn tế, thơ, nổi tiếng nhất là Truyện Kiều bất hủ.

2. Thân bài:

* Giới thiệu Truyện Kiều:

- Truyện Kiều có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết Trung Quốc là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy vậy, phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn. Ông đã chuyển thể sang truyện thơ lục bát bằng chữ Nôm. Nghệ thuật ngôn ngữ, xây dựng hình tượng nhân vật, tả cảnh, tả tình... của Nguyễn Du đều đạt tới trình độ điêu luyện.

- Truyện Kiều đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bị áp bức, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. Đồng thời bày tỏ sự trân trọng đối với khát vọng tự do, hạnh phúc và khát vọng công lí, chính nghĩa.

* Tóm tắt nội dung Truyện Kiều:

Thuý Kiều là người con gái tài sắc của một gia đình trung lưu nền nếp. Trong tiết Thanh minh, Thuý Kiều tình cờ gặp Kim Trọng. Hai người nhanh chóng yêu nhau rồi hẹn ước thề nguyền. Bỗng dưng, Vương viên ngoại bị thằng bán tơ vu oan. Gia đình tan nát, cha và em trai bị bắt bớ, đánh đập, Thuý Kiều đành phải bán mình chuộc cha rồi rơi vào lầu xanh lần thứ nhất. Ở đó, nàng được Thúc Sinh bỏ tiền ra chuộc làm vợ lẽ, nhưng chẳng được bao lâu thì bị vợ cả là Hoạn Thư ghen ghét, đoạ đày. Sóng gió cuộc đời đưa đẩy Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ hai. May mà nàng gặp người anh hùng Từ Hải và trở thành vợ chàng rồi được chàng giúp báo ân, báo oán. Bị Hồ Tôn Hiến dụ dỗ, Thuý Kiều vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết nên nàng đau đớn, ân hận nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Vãi Giác Duyên cứu nàng, sau đó đưa về thảo am tu cùng. Kim Trọng cất công đi tìm Thuý Kiều. Nhờ Giác Duyên mà cả gia đình sum họp. Thuý Kiều, Kim Trọng tái hợp trong nỗi niềm mừng mừng tủi tủi. Ai cũng muốn hai người nối lại tình xưa, nhưng Thuý Kiều đã quyết: Từ rày khép cửa phòng thu, Chẳng tu thì cũng như tu mới là...

* Truyện Kiều - Bài ca về tình yêu tự do và ước mơ công lí.

+ Truyện Kiều là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, thuỷ chung.

- Mối tình giữa Thuý Kiều và Kim Trọng là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài, gái sắc. Hai người vừa gặp nhau lần đầu thì Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Tình yêu của họ không bị tính toán về địa vị, tiền tài làm vẩn đục.

- Đặc biệt hơn nữa đó là mối tình chân thật và táo bạo hiếm có xưa nay. Thuý Kiều chủ động tìm đến với Kim Trọng để giãi bày tâm sự và cùng chàng thề nguyền gắn bó trăm năm.

- Mối tình trong sáng, đẹp đẽ như vậy nhưng rồi phải tan vỡ nhanh chóng trước cơn phong ba bão táp của những thế lực đen tối, bạo tàn.

- Ngày nay, chúng ta quan niệm tự do yêu đương là chuyện bình thường, nhưng trong xã hội phong kiến hà khắc thời Nguyễn Du, một mối tình lãng mạn như thế lại là một ước mơ tốt đẹp, thấm nhuần tinh thần nhân đạo.

+ Truyện Kiều là ước mơ công lý chính nghĩa của nhân dân.

- Từ Hải là hình ảnh người anh hùng lí tưởng của nhân dân. Thấy sự bất bằng, chàng không thể bỏ qua. Từ Hải giúp Kiều báo ân, báo oán, làm quan toà xử tội những kẻ đã đày đoạ, áp bức nàng.

- Từ Hải tượng trưng cho công lí, cho khát vọng tự do. Từ Hải chống lại triều đình không ngoài khát vọng tự do ngang dọc. Hồ Tôn Hiến đã giết chết Từ Hải bằng âm mưu thâm độc, nhưng hình ảnh đẹp đẽ của Từ Hải vẫn sống mãi trong lòng quần chúng bị áp bức.

* Truyện Kiều - Tiếng khóc cho số phận con người.

- Truyện Kiều là tiếng khóc cho những mối tình tan vỡ. Đó là mối tình đầu trong sáng, đẹp đẽ của Thuý Kiều và Kim Trọng; mối tình đầy chua xót, đắng cay của Thuý Kiều Với Thúc Sinh; mối tình tri âm, tri kỉ của Thuý Kiều và Từ Hải.

- Truyện Kiều là tiếng khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan. Suốt mười lăm năm lưu lạc, không khi nào Kiều nguôi nhớ thương cha mẹ và các em.

- Truyện Kiều là tiếng khóc cho nhân phẩm bị chà đạp. Nguyễn Du đã dành những lời ai oán, đau đớn nhất để nói về cảnh Thuý Kiều phải bán mình, buộc phải tiếp khách làng chơi, bị mua đi bán lại như món hàng vô tri vô giác.

- Người đọc xót thương Thuý Kiều chính vì Nguyễn Du đã ngậm ngùi rơi lệ trước cảnh ngộ đầy bi kịch của một thiếu nữ tài sắc bậc nhất mà lại bị giày vò, đày đoạ bởi xã hội phong kiến vạn ác.

- Tiếng khóc trong Truyện Kiều vừa là tiếng kêu thương về quyền sống của con người trong xã hội phong kiến, vừa thể hiện tấm lòng nhà thơ hiểu thấu mọi cung bậc của nỗi đau nhân thế. Các nhân vật trong Truyện Kiều mà ông yêu quý dù tài hoa, dù cố gắng vượt lên số phận, nhưng cuối cùng đều bị huỷ hoại.

* Truyện Kiều - Bản cáo trạng đanh thép đối với các thế lực đen tối.

- Cùng với tiếng khóc đau đớn chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu xa, Truyện Kiều còn là lời tố cáo mạnh mẽ hiện thực đen tối của xã hội phong kiến. Trước hết, tác giả tố cáo tội ác của giai cấp thống trị: từ bọn sai nha, quan xử kiện, bọn chủ lầu xanh cho đến ả tiểu thư họ Hoạn, tên quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến,... Bọn chúng đều ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người.

- Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, lẽ ra nàng phải được sống một cuộc đời ấm êm, hạnh phúc, nhưng xã hội phong kiến bạo tàn đã cướp đi tất cả.

- Mấy phen Thuý Kiều cố vươn lên, tìm cách thoát khỏi cảnh đời ô nhục nhưng đều bị những thế lực bạo tàn nhấn chìm sâu hơn nữa. Hành động quyên sinh của Thuý Kiều ở sông Tiền Đường không chỉ chấm dứt một đoạn đời mười lăm năm lưu lạc của nàng mà còn là cách Nguyễn Du kết án tội ác của cái xã hội đã đày đoạ nàng.

- Tuy cuối cùng được gặp lại Kim Trọng nhưng Thuý Kiều cảm thấy cuộc đời mình đã mất hết ý nghĩa. Nàng sống cô đơn, mòn mỏi trong quãng đời còn lại. Đây là bản cáo trạng đanh thép của Nguyễn Du đối với chế độ phong kiến đầy áp bức, bất công.

* Cái nhìn của Nguyễn Du đối với đồng tiền trong Truyện Kiều.

+ Nguyễn Du nhận thức rất rõ về hai mặt của đồng tiền.

- Tác hại ghê gớm của ma lực đồng tiền: Vì tiền, nhiều kẻ trở nên tham lam, vô liêm sỉ: Thằng bán tơ; bọn sai nha đầu trâu mặt ngựa; viên quan xử kiện vì tiền mà đổi trắng thay đen, tên Mã Giám Sinh, mụ Tú Bà, gã Sở Khanh kiếm chác trên nỗi tủi nhục của các cô gái lầu xanh; bọn Ưng Khuyển đốt nhà; bắt cóc, giết người vì tiền...

- Tác dụng tích cực của đồng tiền: Thuý Kiều bán mình để lấy tiền chuộc cha và em ra khỏi chốn tù ngục. Từ Hải đem tiền bạc để chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Thuý Kiều báo ân, báo oán...

* Truyện Kiều - Tiếng nói “hiểu đời” của Nguyễn Du.

- Giá trị của kiệt tác Truyện Kiều không chỉ ở nội dung và nghệ thuật mà còn thể hiện ở chiều sâu hiểu biết về con người, ở sự thông cảm, bao dung đối với con người của Nguyễn Du. Ông hầu như hiểu hết mọi điều uẩn khúc trong đời sống tình cảm của con người, nhìn rõ chỗ mạnh chỗ yếu, thậm chí cả chỗ tầm thường của từng nhân vật. Ông miêu tả nhân vật với cảm xúc xót xa, thương cảm hoặc khinh bỉ và căm phẫn.

- Thuý Kiều và Từ Hải đều có tính cách cao thượng, mạnh mẽ, tuy nhiên cũng có khi yếu đuối, dại dột, tầm thường. Tuy vậy, bao giờ hai nhân vật này cũng chiếm trọn tình cảm mến yêu của nhà thơ. Cao Bá Quát khen: Truyện Kiều là tiếng nói hiểu đời. Ý kiến đó khẳng định giá trị sâu sắc của tác phẩm.

- Trong Truyện Kiều, những nhân vật bác ái, từ bi không nhiều. Nguyễn Du nói đến họ một cách trân trọng để đem lại cho người đọc một niềm an ủi, hi vọng, dù là nhỏ nhoi. Nhà thơ giúp người đọc hiểu ra rằng tại sao trong giai đoạn suy tàn của giai cấp phong kiến, lòng thương người lại hiếm hoi đến thế! Nguyễn Du kín đáo khẳng định: cái chế độ bất nhân, bất nghĩa đó không có lý do gì để tiếp tục tồn tại.

* Giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều:

+ Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật sống động:

- Các nhân vật của Nguyễn Du vừa có nét riêng nổi bật, vừa có nét điển hình, đặc biệt là về tâm lí. Chỉ cần một đôi nét miêu tả chính xác, tài tình là tác giả đã thể hiện đúng thần thái của nhân vật ấy.

+ Truyện Kiều là mẫu mực của nghệ thuật tự sự và trữ tình:

- Nguyễn Du có biệt tài kể chuyện và giới thiệu nhân vật một cách ngắn gọn và sinh động. Chỉ bằng vài câu thơ, ông đã giúp người đọc hiểu được tình huống, tính cách, tâm trạng của từng nhân vật.

- Nguyễn Du đã biến thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc trở thành một hình thức thơ trang nhã và hấp dẫn.

- Ngôn ngữ Truyện Kiều trong sáng, phong phú, trau chuốt và giàu sức biểu cảm. Ngôn ngữ dân gian kết hợp nhuần nhuyễn với ngôn ngữ bác học. Lời thơ tuy được viết cách đây hai trăm năm nhưng đến nay đọc vẫn thấy mới mẻ. Ngôn ngữ nhân vật được cá tính hoá cao độ, nhân vật nào ngôn ngữ ấy, không thể lẫn lộn. Tác giả sử dụng từ Hán - Việt, các điển tích, điển cố rất đúng chỗ, phép đối rất chỉnh. Bằng Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng cao bản chất giàu và đẹp của Tiếng Việt; khai thác và sáng tạo để làm nên một kiệt tác bất hủ.

3. Kết bài:

- Truyện Kiều có giá trị nội dung và nghệ thuật đạt tới trình độ xuất sắc, điêu luyện, thể hiện tài năng bậc thầy của thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều xứng đáng là đỉnh cao chói lọi của thơ ca dân tộc.

- Truyện Kiều được nhiều thế hệ người đọc Việt Nam yêu thích. Nguyễn Du được tôn vinh là đại thi hào, là Danh nhân văn hoá thế giới. Tên tuổi của ông đã mang lại vẻ vang cho nền văn học nước nhà.

II. BÀI LÀM

Nguyễn Du (1765 - 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc phong kiến nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ Tiến sĩ, từng giữ chức tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng làm quan to dưới triều Lê - Trịnh.

Nguyễn Du sống trong hoàn cảnh thuận lợi và đầy đủ như thế không được bao lâu. Năm 9 tuổi, ông mồ côi cha, năm 12 tuổi lại mồ côi mẹ. Cùng với sự sụp đổ của chế độ Lê - Trịnh, dòng họ Nguyễn lừng lẫy hiển vinh cũng dần dần xiêu tán. Vì thế mà Nguyễn Du đã phải trải qua cuộc sống khổ sở, cơ cực như dân thường. Nhiều lúc ông lâm vào cảnh đói không cơm, rét không áo, ốm không thuốc, thậm chí không chốn nương thân.

Cuộc đời Nguyễn Du gắn liền với giai đoạn lịch sử cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX với hai đặc điểm nổi bật: chế độ phong kiến suy tàn khủng hoảng trầm trọng, phong trào nông dân nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn như cơn bão lớn quét sạch các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh thối nát và đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược.

Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã một phen thay đổi sơn hà, làm lung lay ý thức hệ tư tưởng của nhiều người, trong đó có Nguyễn Du. Sau khi phong trào Tây Sơn thất bại, triều Nguyễn được thiết lập; Nguyễn Du đã hướng ngòi bút vào việc phản ánh hiện thực đất nước vừa Trải qua một cuộc bể dâu để ghi lại Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Trong suốt quãng đời lênh đênh lưu lạc, nhà thơ đã tiếp xúc với nhiều cảnh đời, nhiều con người có số phận khác nhau. Sau khi ra làm quan với triều đình nhà Nguyễn, ông được vua cử đi sứ Trung Hoa nên có dịp qua nhiều vùng đất khác nhau và tiếp xúc với nền văn hoá Trung Hoa phong phú, đa dạng.

Những biến động lớn lao của gia đình, xã hội đã tác động sâu sắc tới con người cùng sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông đạt tới tầm cỡ của một thiên tài văn học. Về chữ Hán, Nguyên Du có ba tập thơ : Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, với tổng số 243 bài. Về chữ Nôm, ông có nhiều tác phẩm mà nổi tiếng nhất là Truyện Kiều.

Truyện Kiều có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà và trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Tuy có nguồn gốc từ một tiểu thuyết Trung Quốc là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức to lớn, quyết định thành công của tác phẩm. Từ nghệ thuật kể chuyện bằng thơ đến nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tả người, tả cảnh của Nguyễn Du đều đạt tới trình độ tinh tế và điêu luyện.

Tóm tắt nội dung Truyện Kiều:

PHẦN THỨ NHẤT: Gặp gỡ và đính ước.

Thuý Kiều là thiếu nữ tài sắc, con gái đầu lòng của một gia đình trung lưu lương thiện. Nàng sống trong cảnh Êm đềm trướng rủ màn che bên cạnh cha mẹ và hai em là Thuý Vân, Vương Quan. Trong dịp du xuân tiết Thanh minh, Thuý Kiều tình cờ gặp Kim Trọng. Tình yêu giữa hai người chớm nở. Nhân việc trả chiếc thoa rơi, Kim Trọng đã gặp gỡ Thuý Kiều. Sau đó hai người bày tỏ tâm tình và tự nguyện đính ước trăm năm với nhau.

PHẦN THỨ HAI: Gia biến và lưu lạc.

Trong khi Kim Trọng về quê ở tận Liêu Dương để chịu tang người chú, gia đình Thuý Kiều bị tên bán tơ vu oan dẫn đến cảnh tội tù, tan nát. Thuý Kiều trao duyên cho Thuý Vân, nhờ Thuý Vân trả món nợ tình cho Kim Trọng, còn nàng thì quyết định bán mình để lấy tiền chuộc cha.

Thuý Kiều bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Mến mộ tài sắc của nàng, Thúc Sinh đã chuộc nàng ra, cưới làm vợ lẽ. Nhưng rồi Kiều bị vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen tuông, đày đọa, làm cho khốn khổ. Nàng phải trốn đến nương nhờ cửa Phật. Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà - một kẻ buôn người như Tú Bà nên lần thứ hai, Kiều lại rơi vào lầu xanh. Ở đây, Thuý Kiều gặp người anh hùng Từ Hải. Từ Hải cưới Kiều làm vợ và giúp nàng báo ân báo oán. Bị tên quan tổng đốc Hồ Tôn Hiến dụ dỗ, Thuý Kiều khuyên Từ Hải ra hàng và chàng đã bị giết chết. Thuý Kiều phải hầu đàn, hầu rượu cho Hồ Tôn Hiến rồi bị hắn ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn, tủi nhục, Kiều trẫm mình xuống sông Tiền Đường. Nàng được Giác Duyên cứu và lần thứ hai lại nương nhờ cửa Phật.

PHẦN THỨ BA: Đoàn tụ.

Sau nửa năm, Kim Trọng trở lại vườn Thuý để tìm Thuý Kiều. Hay tin gia đình nàng gặp cơn hoạn nạn và Kiều phải bán mình chuộc cha, chàng đau đớn vô cùng. Tuy kết duyên với Thuý Vân theo nguyện vọng của Thuý Kiều nhưng Kim Trọng chẳng thể nào quên được mối tình đầu say đắm. Chàng quyết cất công đi tìm Thuý Kiều. Tình cờ gặp được Giác Duyên mà Kim, Kiều gặp nhau, gia đình đoàn tụ. Chiều ý mọi người, Thuý Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng đồng ý coi: Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.

GIÁ TRỊ CỦA TRUYỆN KIỀU:

Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là hiện thực và nhân đạo.

Tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bị áp bức, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án tố cáo những thế lực tàn bạo; đồng thời bày tỏ thái độ trân trọng đối với khát vọng hạnh phúc, tự do, công lí và chính nghĩa.

Truyện Kiều - Bài ca về tình yêu tự do và ước mơ công lí.

Giữa xã hội phong kiến bức bối, ngột ngạt ấy, Nguyễn Du đã nhen nhóm trong lòng người những ước mơ đẹp đẽ. Đó là ước mơ được tự do yêu đương, được hạnh phúc, ước mơ công lý chính nghĩa và ước mơ tháo cũi sổ lồng là những thứ mà giai cấp thống trị không bao giờ cho phép.

Truyện Kiều là bài ca về tình yêu tự do.

Trước hết, nhà thơ đã xây dựng thành công một tình yêu tự do trong sáng và lãng mạn tuyệt vời. Mối tình giữa Thuý Kiều và Kim Trọng là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài gái sắc, phù hợp với quy luật tự nhiên.

Thường thì nam nữ đến với nhau và yêu mến, hoà hợp nhưng nhiều khi cũng chưa kịp hiểu vì lẽ gì thì tình yêu đã chiếm trọn cả trái tim. Đó là trường hợp của Thuý Kiều và Kim Trọng. Hai người vừa gặp nhau lần đầu mà Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Tình yêu của họ không hề bị một tính toán nào về địa vị, tiền tài làm vẩn đục. Một mối tình như thế trong xã hội phong kiến là một hiện tượng đặc biệt.

Đặc biệt hơn nữa đó là mối tình chân thật và táo bạo hiếm có xưa nay. Kiều không cần che giấu cảm xúc tự nhiên đang trào dâng sôi nổi trong lòng, không cần kiềm chế trái tim mình một cách giả tạo để giữ cho đúng nền nếp gia phong.

Tình yêu đến với Thuý Kiều vì hình ảnh Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời hay vì Tuyết in sắc ngựa câu giòn?! Hay vì Phong tư tài mạo tuyệt vời, vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa của Kim Trọng? Chỉ biết rằng có một điều gì đó kì lạ lắm đang xảy ra trong tâm hồn người thiếu nữ khi giáp mặt chàng Kim. Nó vừa thoáng qua thôi đã làm cho nàng rơi vào trạng thái Chập chờn nửa tỉnh nửa mê, buộc nàng phải ghé mắt nhìn theo bóng chàng. Nó khiến cho cảnh vật nhuốm màu bâng khuâng, man mác, vấn vương, quyến luyến. Bóng chiều dường như cũng không muốn đi và tơ liễu lại càng thêm thướt tha.

Đêm trăng trong vườn Thuý lúc hai người gặp gỡ ăm ắp khí xuân. Từ bóng trăng đến giọt sương, cành cây, ngọn cỏ... cái gì cũng rạo rực nỗi niềm. Hình ảnh chàng trai ban chiều hiển hiện rõ ràng trong tâm tưởng người thiếu nữ và trái tim nàng đã bắt đầu thổn thức bởi ước mơ đôi lứa.

Đến hôm Thuý Kiều đánh rơi chiếc thoa trên cành đào rồi nghe người bên kia tường đánh tiếng: Thoa này bắt được hư không, Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về? thì nàng đáp lại một cách tự nhiên như đối với người quen biết từ lâu. Kim Trọng ngỏ lời cầu hôn, Thuý Kiều đã mau chóng nhận lời.

Thuý Kiều chủ động tìm đến với Kim Trọng. Nàng chớp lấy cơ hội cha mẹ đi vắng để sang trò chuyện với người yêu: Nhà lan thanh vắng một mình, Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay và sau đó: Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường. Cái gót sen thoăn thoắt hồn nhiên và táo bạo ấy quả thật đến giờ vẫn còn làm cho nhiều người sửng sốt. Tình tự với người yêu trọn một ngày, đến tối Kiều mới sực tỉnh bèn chữa thẹn: Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai rồi vội vàng chia tay. Cha mẹ và hai em vẫn chưa về, nàng lại Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang với chàng Kim. Đêm ấy, Thuý Kiều cùng Kim Trọng thề nguyền Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương, dưới Vừng trăng vằng vặc giữa trời...

Chế độ phong kiến với những luân lí giáo điều hà khắc không cho phép con người được quyền tự do yêu đương, nhưng cuộc sống có quy luật tự nhiên của nó. Thuý Kiều có một tâm hồn đa tình, đa cảm, sôi nổi, nồng nàn. Khuôn khổ chật chội, tù túng của chế độ phong kiến tất nhiên không dung nạp nổi tâm hồn phong phú ấy.

Vậy tình yêu tự do của Thuý Kiều có phải là một thách thức đối với lễ giáo phong kiến? Không hẳn như vậy mà nó nhằm mục đích tích cực hơn, cao đẹp hơn là tiến tới một cuộc hôn nhân nghiêm túc. Lời thề nguyền Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương không chỉ là cơ sở bảo đảm cho tình yêu bền vững, mà còn thể hiện sự kính trọng, mến phục, trọng nhau vì tài, mến nhau vì đức của cặp tài tử, giai nhân ấy.

Mối tình trong sáng, đẹp đẽ như vậy mà rồi phải tan vỡ nhanh chóng trước cơn phong ba bão táp của những thế lực bạo tàn. Nhưng xã hội bất nhân chỉ đày đoạ, vùi dập được tấm thân của Thuý Kiều chứ không thể cướp được tình yêu tha thiết của nàng đối với chàng Kim. Có điều, tấm lòng kiên trình, chung thuỷ của nàng không thể đương đầu nổi với xã hội vạn ác. Thuý Kiều bị đẩy vào lầu xanh, vì muốn thoát khỏi cảnh sống nhuốc nhơ nên đành chấp nhận làm vợ lẽ Thúc Sinh, rồi sau này may mắn được kết duyên với Từ Hải. Thời gian đằng đẵng mười lăm năm lưu lạc dẫu có làm nhạt phai đôi chút nhưng không thể dập tắt tình yêu trong tim Thuý Kiều mỗi khi nhớ tới Kim Trọng : Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

Ngày nay, chúng ta quan niệm tự do yêu đương là chuyện bình thường, nhưng trong xã hội phong kiến mục nát thời Nguyễn Du, một mối tình đặc biệt lãng mạn như thế quả là thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ước mơ hạnh phúc của người xưa.

Sống trong chế độ phong kiến đen tối, ngột ngạt như vậy, tất nhiên mọi người phải cố mà tìm cho ra lối thoát. Còn thoát được hay không, tạm thời hay vĩnh viễn, thoát rồi đi đâu lại là vấn đề khác. Không thời nào nhân dân bị áp bức lại không ước mơ thoát khỏi cảnh sống đoạ đày trước mắt để được sống một cuộc đời công bằng, nhân đạo, tự do, hạnh phúc. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng hết nhiệt huyết và thiên tài nghệ thuật của mình để thể hiện giấc mơ tháo cũi sổ lồng của con người bị áp bức đã hàng nghìn năm.

Thuý Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư, tưởng đã yên thân khi được nương nhờ cửa Phật nhưng người của cửa Phật từ bi cũng kinh sợ uy quyền của giai cấp thống trị nên đành khuyên nàng chấp nhận kiếp sống Chân trời góc biển bơ vơ. Thuý Kiều túng thế đành phải nghe theo lời Bạc Bà, gửi thân cho một kẻ mà nàng chưa hề quen biết là Bạc Hạnh. Chẳng may Bạc Hạnh Cũng phường bán thịt buôn người. Hắn liền đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh lần thứ hai. Đến đây, oan khốc chồng chất lên cuộc đời của Kiều đến mức nàng không sao chịu nổi. Phật cũng bó tay, thánh thần thành vô dụng. Con người lương thiện còn biết dựa vào đâu?! Mâu thuẫn đã lên đến điểm đỉnh, cần phải giải quyết. Người đọc cũng nóng lòng chờ đợi một cánh cửa mở ra, một lưỡi gươm vung lên. Đúng lúc đó, người anh hùng Từ Hải xuất hiện.

Truyện Kiều là ước mơ về tự do và công lí chính nghĩa.

Từ Hải là hình ảnh lí tưởng của công lí nhân dân. Công lí trong quan niệm của Từ Hải giản dị mà dứt khoát, giống như cuộc sống tự nhiên của chàng. Từ Hải không thể nào thấy sự bất bằng mà bỏ qua được. Phản ứng của chàng trước những chuyện bất bình vừa đột ngột, vừa mãnh liệt như sấm vang sét nổ. Cơn giận của Từ Hải chứa chất mãnh lực ghê gớm của thiên nhiên, trời đất, kẻ có tội đừng mong trốn thoát. Lưỡi gươm của Từ Hải vừa vung lên thì công lí đã được đem lại cho người con gái họ Vương tội nghiệp. Lũ vua quan của cái triều Minh tự hào là Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng đã hùa nhau biến Kiều từ một thiếu nữ trong trắng thành gái thanh lâu. Từ Hải đã đưa nàng từ thân phận hèn kém lên địa vị của một phu nhân quyền quý. Luật pháp của xã hội phong kiến cho phép bọn lưu manh, côn đồ làm hại cuộc đời Kiều, nhưng khi Từ Hải thét lên một tiếng thì lũ mặt người dạ thú kia ngay lập tức máu chảy đầu rơi.

Loại công lí tương tự như vậy đã xuất hiện trong các phong trào khởi nghĩa của nông dân, mà tiêu biểu nhất là phong trào Tây Sơn. Liên hệ thái độ của Từ Hải trước việc báo ân báo oán của Thuý Kiều với ước mơ công lí của nhân dân, ta sẽ thấy có những nét tương đồng. Chàng nói bắt là bắt, nói giết là giết, ân thì trả ân, oán thì trả oán, rõ ràng như ban ngày. Giữa chốn trướng hùm uy nghiêm, Thuý Kiều sánh vai với Từ Hải báo ân báo oán. Cảnh ấy có ý nghĩa như một sự thay bậc đổi ngôi, một sự vùng lên của con người bị chà đạp, khinh bỉ. Con người thấp cổ bé miệng, con người bị áp bức đày đoạ là Thuý Kiều, giờ đây đường đường làm quan toà xử tội những kẻ áp bức. Cho nên công lí trong Truyện Kiều có tính chất là công lí chính nghĩa, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Bản hùng ca trong Truyện Kiều không phải chỉ có ước mơ công lí mà còn có mơ ước được sống tự do, phá vỡ khuôn khổ tù hãm của xã hội phong kiến. Hình ảnh người anh hùng Từ Hải tượng trưng cho công lí, cho khát vọng tự do. Từ Hải chống lại triều đình không ngoài khát vọng tự do ngang dọc. Tung tích của Từ Hải không ai biết và Nguyễn Du cũng chỉ gọi chàng chung chung là khách biên đình. Chàng như ngôi sao sáng rực bỗng dưng xuất hiện trên bầu trời thăm thẳm, tối đen.

Từ Hải lúc đầu xuất hiện cùng với tư cách là một khách làng chơi, nhưng người khách đặc biệt này không hề giống Thúc Sinh quen thói bốc rời, Trăm nghìn đổ một trận cười như không. Anh chàng họ Thúc háo sắc ấy phải tốn bao nhiêu tiền bạc mới chuộc được Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh. Trái lại, Từ Hải chỉ ngỏ một lời là xong xuôi mọi việc và Thuý Kiều bỗng trở thành một phu nhân quyền quý. Từ Hải xuất quỷ nhập thần mà hành động thì y như bão táp, sấm sét. Từ Hải bỗng dưng đến, rồi bỗng dưng đi. Chàng vừa mới từ biệt Thuý Kiều để Thanh gươm yên ngựa lên đàng thẳng dong, thoắt một cái đã trở về với thiên binh vạn mã, thoắt một cái đã giúp Kiều báo ân báo oán, thoắt một cái đã lập nên: Triều đình riêng một góc trời, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà, rồi cũng thoắt một cái là chết và chết đứng. Nói đến sự mãnh liệt thì hành động của Từ Hải giống như một cơn bão táp bất ngờ. Nói đến ánh sáng mà Từ Hải đem lại cho đời Kiều và cho tác phẩm thì Từ Hải giống như một ngôi sao băng xẹt qua bầu trời, sáng loà phút chốc rồi vụt tắt.

Từ Hải hoàn toàn không phải là một người tầm thường sống theo khuôn khổ chật hẹp của chế độ phong kiến. Từ Hải không đi theo đường mòn, không ép mình theo sự ràng buộc của Tam cương, Ngũ thường. Tầm vóc và tài trí của Từ Hải đều vượt xa kích cỡ tầm thường:

Râu hùm hàm én mày ngài,

Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.

Chí tung hoành của Từ Hải cần đến không gian vô biên. Trên đầu chàng không phải là nợ quân thần, dưới chân không phải là những ràng buộc tủn mủn của đời thường. Đầu đội trời, chân đạp đất, Từ Hải như một cây trụ kình thiên sừng sững, hiên ngang. Con người như thế tất phải lấy trời cao đất rộng làm nhà cửa, lấy giang hồ làm thú vẫy vùng. Cho nên cuộc sống yên ổn, mặn nồng bên cạnh mỹ nhân đâu có thể giam hãm cánh chim bằng. Khi tiếng gọi của bốn phương vang lên thì Từ Hải dứt áo ra đi như có sức mạnh ghê gớm của tiềm thức thúc đẩy. Con người ấy hình bóng sừng sững như che lấp cả đất trời. Thanh gươm, yên ngựa của chàng không hề bé nhỏ trước trời biển mênh mang. Một mình chàng mà có thể chọc trời khuấy nước. Một mình chàng có thể Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo. Một mình chàng mà có thể làm nên những việc Động địa kinh thiên đùng đùng. Từ Hải không thèm đếm xỉa đến cái triều đình thối nát đương thời nên mới có thái độ của một bậc anh hùng: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Từ Hải khinh bỉ bọn người vào luồn ra cúi, cam tâm sống cuộc đời giá áo túi cơm. Từ Hải hiên ngang đứng lên phủ định triều đình phong kiến tiêu biểu cho mọi sự áp bức, bất công. Đó là biểu hiện của ý chí và lí tưởng tự do đáng khâm phục của người anh hùng.

Xã hội phong kiến suy đồi làm sao dung nạp được lí tưởng tự do ấy?! Hồ Tôn Hiến đã giết chết Từ Hải nhưng khát vọng tự do mãnh liệt của chàng sống mãi trong lòng những người dân bị áp bức. Hình ảnh kì vĩ của Từ Hải đã đem lại sự thoả mãn cho ước mơ tự do, ước mơ giải phóng rất chính đáng của con người.

Truyện Kiều - Tiếng khóc cho số phận con người.

Truyện Kiều là tiếng khóc đứt ruột cho số phận con người. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm của ông là Đoạn trường tân thanh.

Trong Truyện Kiều, bao nhiêu nỗi đau khổ trên đời trút xuống đầu cô gái yếu đuối Thuý Kiều đều được Nguyễn Du miêu tả cặn kẽ, khiến cho tiếng khóc đoạn trường muôn năm vẫn còn làm thổn thức nhân gian. Nỗi khổ của người thiếu nữ phải tự nguyện cắt đứt mối tình đầu để đáp đền chữ hiếu. Nỗi khổ của người con gái thông minh, tài sắc phải đem tấm thân ngà ngọc bán cho kẻ xa lạ. Nỗi khổ của người vợ lẽ đã phải ngậm ngùi chấp nhận kiếp con hầu, đầy tớ mà vẫn bị vợ cả đánh ghen, đày đoạ đến mức cất đầu chẳng lên...

Truyện Kiều khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan. Suốt mười lăm năm lưu lạc, không khi nào Kiều nguôi nhớ thương cha mẹ và các em. Khi ở lầu Ngưng Bích thì: Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Lúc sống với Từ Hải, không lúc nào nàng không đau đáu nhớ cha mẹ ở quê xa: Đoái thương muôn dặm tử phần, Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa. Xót thay huyên cỗi, xuân già, Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?

Kiều phải chịu đựng nỗi khổ của kĩ nữ bất đắc dĩ chốn lầu xanh, bị giày vò đau đớn cả tâm hồn lẫn thể xác trong những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm, để rồi: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình, xót xa! Kiều cắn răng đau khổ tự trách chỉ vì nhẹ dạ cả tin nên đã bị Hồ Tôn Hiến dụ dỗ lừa đảo, vô tình đẩy Từ Hải - người chồng và cũng là ân nhân lớn nhất đời mình vào cái chết bi thảm.

Tất cả những điều đó đều được Nguyễn Du nói lên bằng những lời thơ chân thực nhất, sâu sắc nhất. Truyện Kiều là câu chuyện về con người bị áp bức, chà đạp, nhưng trước hết là câu chuyện của người phụ nữ bị áp bức, chà đạp. Vì thế mà Truyện Kiều có ý nghĩa là một thiên lệ sử mà bất cứ người phụ nữ nào cũng có thể tìm thấy một chút thân phận, cảnh ngộ của mình trong đó.

Xã hội phong kiến trước mắt Nguyễn Du là một xã hội đầy những bọn nhai thịt người ngọt xớt như đường, đầy áp bức bất công đối với những người dân thấp cổ, bé miệng. Truyện Kiều vừa là tiếng kêu thương về quyền sống cá nhân con người trong xã hội phong kiến, vừa thể hiện tấm lòng nhà thơ hiểu thấu mọi cung bậc của nỗi đau nhân thế và qua đó khẳng định các giá trị nhân sinh đích thực.

Truyện Kiều - Bản cáo trạng đanh thép đối với các thế lực đen tối.

Cùng với tiếng khóc đau đớn chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu xa, Truyện Kiều còn là bản cáo trạng đanh thép tố cáo các thế lực đen tối chà đạp nhân phẩm, tước đoạt quyền sống của con người và lên án ma lực đồng tiền làm tha hoá con người.

Trước hết, tác giả tố cáo tội ác của giai cấp phong kiến thống trị tước đoạt quyền sống của con người, đặc biệt là của phụ nữ. Thường thường, giai cấp thống trị vẫn dùng chiêu bài đạo lí, nhân nghĩa để che lấp tội ác. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã bóc trần bản chất xấu xa của chúng trước dư luận ngàn đời.

Bao nhiêu đau đớn, bất hạnh của con người được Nguyễn Du tập trung thể hiện trong nhân vật tiêu biểu là Thuý Kiều. Bằng tài năng nghệ thuật kiệt xuất, ông đã làm cho nhân vật đáng mến, đáng thương, đáng khâm phục ấy sống mãi với thời gian.

Cuộc đời trầm luân của Thuý Kiều Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần đến nay vẫn còn làm cho gan ruột người đọc quặn đau. Sức sống của tác phẩm Truyện Kiều và nhân vật Thuý Kiều sau mấy trăm năm mà vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu.

Cô gái họ Vương tài sắc vẹn toàn, lại có thêm tâm hồn nhân hậu cao quý, biết thương mến và biết hi sinh, lẽ ra phải được sống một cuộc đời hạnh phúc, ấm êm, được làm vợ và làm mẹ. Nhưng xã hội phong kiến bạo tàn đã nhẫn tâm giật đoá hoa tình yêu thơm ngát mà nàng vừa mới đưa tay ra hái rồi vò nát tan tành. Gia đình Kiều bỗng dưng bị thằng bán tơ vu oan dẫn đến cảnh tan tác chia lìa và cách xử kiện vô liêm sỉ của viên quan “ba trăm lạng” buộc Thuý Kiều phải bán mình chuộc cha, mở đầu tấn bi kịch của đời nàng.

Truyện Kiều tố cáo mọi thế lực đen tối trong xã hội phong kiến: từ bọn nha lại đầu trâu mặt ngựa đến tên quan xử kiện bỉ ổi, từ đám ma cô, chủ chứa trâng tráo đến ả tiểu thư họ Hoạn đáo để, cay nghiệt, đến tên quan “ tổng đốc trọng thần” thâm hiếm và đểu cáng... Tất cả đều ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người.

Chúng hùa nhau lôi Thuý Kiều ra khỏi cảnh Êm đềm trướng rủ màn che và vòng tay nâng niu chiều chuộng của cha mẹ, để xô đẩy nàng vào cảnh sống nhơ nhuốc, đoạ đày chốn lầu xanh. Hoạn nạn nọ chưa qua, tai ương khác đã đến, liên tiếp trong suốt mười lăm năm trời. Có lúc tưởng như những thế lực hắc ám đã buông tha Kiều và người con gái tội nghiệp vội mừng rỡ vì thoát nợ, nhưng liền ngay sau đó, giông tố lại nổi lên dữ dội hơn và bàn tay vô hình độc ác lại nhấn nàng chìm sâu hơn xuống bùn đen.

Mấy phen Thuý Kiều cố vươn lên, tìm cách thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Lần đầu, nàng dùng dao để quyên sinh nhưng phản ứng nông nổi của nàng đã bị mưu mô xảo trá của mụ Tú Bà đánh bại. Lần thứ hai, nàng đành nhắm mắt đưa chân, phó thác số phận mình cho anh chàng si tình họ Thúc. Nàng thừa biết đây nào phải là chuyện vợ chồng êm ấm, mà chỉ là Sắn bìm chút phận cỏn con. Nhưng biết làm sao! Thà làm vợ lẽ vẫn còn hơn là sống cuộc đời khổ nhục của gái lầu xanh. Ấy vậy mà bao nhiêu toan tính của nàng đều sụp đổ, chút ước mong được sống bình yên với thân phận lẽ mọn cũng không thành bởi: Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.

Lần thứ ba, sau khi được Từ Hải chuộc ra khỏi lầu xanh và cưới làm vợ, Thuý Kiều đường đường trở thành một bậc phu nhân cao sang, quyền quý. Cũng vì thương người, ngậm ngùi trước cảnh Đống xương vô định đã cao bằng đầu mà nàng đã dùng hết những lí lẽ ngon ngọt của Hồ Tôn Hiến để khuyên Từ Hải ra hàng. Nàng mong thiên hạ thái bình để mau chóng được trở về với cha mẹ, với quê hương.

Ác nghiệt thay! Cái chế độ phong kiến thối nát thể hiện tập trung nhất ở tên tổng đốc trọng thần vừa bất tài, vừa đê tiện kia không chấp nhận một nguyện vọng bình thường, nhỏ nhoi như thế. Đáp lại ước mong bình dị của người con gái khốn khổ, tên Hồ Tôn Hiến phản phúc đã nhẫn tâm lừa giết chồng nàng và trơ tráo kiếm chác trên nhan sắc, tài hoa của nàng. Lúc tỉnh rượu, sợ mang tai tiếng, hắn lại tàn nhẫn ép nàng lấy một viên thổ quan cho êm chuyện.

Hành động quyên sinh của Thuý Kiều ở sông Tiền Đường không chỉ chấm dứt một đoạn đời mười lăm năm lưu lạc của nàng mà còn là một cách kết án đanh thép của Nguyễn Du về cái xã hội vô nhân đạo, không tôn trọng tài hoa, đức hạnh, chà đạp lên nhân phẩm và không để cho con người được sống yên ổn, bình thường.

Không dừng lại ở đó, trong đoạn vĩ thanh, Nguyễn Du đã để cho Kiều đoàn tụ với chàng Kim. Với kiểu kết thúc tưởng như có hậu ấy, tác giả một lần nữa đã tố cáo chế độ vạn ác đương thời. Bởi vì, một người con gái tài sắc vẹn toàn như Thuý Kiều lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình, nhưng rốt cuộc nàng lại phải sống cô đơn, mòn mỏi suốt quãng đời còn lại. Không nỗi bất hạnh nào lớn hơn đối với người phụ nữ bằng điều đáng sợ ấy. Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét đây là bản cáo trạng cuối cùng của Nguyễn Du đối với chế độ phong kiến tàn bạo.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đề cập đến cả hai mặt tốt và xấu của đồng tiền. Nguyễn Du không có thái độ một chiều hoặc cực đoan khi nói đến đồng tiền mà đã phản ánh một cách khách quan tác dụng tích cực cũng như tác hại ghê gớm của nó thông qua hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện.

Trước tiên, Nguyễn Du đã khẳng định và lên án ma lực đồng tiền đã làm suy thoái nhân cách, đạo đức con người. Nguyễn Du bóc trần bản chất tham lam, xấu xa của bọn mặt người dạ thủ, sẵn sàng vì tiền mà bán rẻ lương tâm. Đó là thằng bán tơ bỗng dưng vu oan cho gia đình Vương ông; là bọn sai nha đầu trâu mặt ngựa hung hăng, tàn bạo đã đánh đập Vương ông, Vương Quan và cướp bóc, phá phách vô tội vạ: Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. Đó là tên quan xử kiện chẳng cần biết phải trái, thực hư ra sao, chỉ cần khảo cho ra tiền: Có ba trăm lạng việc này mới xong. Đó là tên buôn người Mã Giám Sinh lừa gạt, đểu cáng, đã mượn danh nghĩa đi cưới vợ lẽ mà vẫn: Có kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Đó là mụ Tú Bà chủ lầu xanh, chuyên kiếm chác tiền bạc trên thân xác của các kĩ nữ. Lúc nào mụ cũng nghĩ đến tiền và chỉ sợ Kiều bỏ trốn thì: Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma. Đó là tên ma cô Sở Khanh tráo trở, nhâng nháo, chỉ vì tham tiền mà sẵn sàng làm tay sai cho Tú Bà để giăng bẫy lường gạt Thuý Kiều, buộc nàng phải tiếp khách làng chơi. Đó còn là lũ côn đồ Ưng, Khuyển chuyên sống bằng nghề đâm thuê chém mướn, bắt cóc, đốt nhà, giết người không ghê tay. Nguyễn Du đã lớn tiếng tố cáo chúng là những kẻ: Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.

Cả một xã hội tàn bạo nhan nhản lũ ruồi xanh và những kẻ táng tận lương tâm, nô lệ của đồng tiền. Nguyễn Du đã mổ xẻ, phanh phui bộ mặt gớm ghiếc của chúng bằng lời thơ căm giận:

Trong tay sẵn có đồng tiền,

Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!

Ma lực của đồng tiền trong xã hội phong kiến thật là khủng khiếp! Nó làm cho gia đình Thuý Kiều tan tác. Nó đày đoạ Vương ông, Vương Quan, nó chia rẽ mối lương duyên đẹp đẽ giữa Kim Trọng, Thuý Kiều và làm cho Thuý Kiều phải chịu đoạ đày suốt mười lăm năm trời đằng đẵng.

Tuy nhiên, Nguyễn Du không câu nệ, cứng nhắc trong cách nhìn đồng tiền. Ông nhận thấy rằng đồng tiền ở trong tay kẻ ác thì vô cùng xấu xa, nhưng với người lương thiện thì đồng tiền luôn thể hiện tính chất tích cực của nó.

Trước cảnh gia đình bị tai bay vạ gió, cha và em bị bắt, bị đánh đập dã man, nhà cửa bị phá phách, cướp bóc, Thuý Kiều trăn trở, suy nghĩ tìm cách làm sao cứu cha, cứu em thoát nạn lúc này? Trong đám nha dịch có người thư lại già họ Chung đã mách nhỏ: Có ba trăm lạng việc này mới xong. Nhưng lấy đâu ra tiền bây giờ? Không còn con đường nào khác, Thuý Kiều đành quyết định bán mình chuộc cha. Đó là một quyết định đau đớn và khủng khiếp nhưng sáng suốt. Trong lịch sử văn chương Việt Nam, có lẽ đây là lần đầu tiên một nhà thơ hết lời ca ngợi một cô gái biết hi sinh tình yêu, hi sinh tuổi trẻ để cứu cha, cứu em Trong cơn vạ gió tai bay bất kì.

Là nạn nhân của đồng tiền nhưng Thuý Kiều cũng biết quý trọng đồng tiền khi đồng tiền giúp nàng đền ơn những người đã cưu mang, giúp đỡ mình mỗi khi hoạn nạn. Thuý Kiều đã trân trọng đền đáp ân nghĩa của Thúc Sinh trong dịp báo ân, báo oán:

Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.

Nàng trả ơn cứu mạng của sư Tam Hợp, vãi Giác Duyên:

Nhớ khi lỡ bước sảy vời,

Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.

Nghìn vàng gọi chút lễ thường,

Mà lòng Phiếu Mẫu mấy vàng cho cân!

Theo suy nghĩ của Thuý Kiều thì việc báo ân chỉ là một hành động bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu nặng chứ không bao giờ đền đáp cho hết được. Với nàng, non vàng, nghìn vàng cũng chỉ là lễ thường, chứ chưa dễ đền bồi tấm thương, chưa xứng với bát cơm Phiếu Mẫu.

Như vậy, cái nhìn của Nguyễn Du về vai trò đồng tiền trong xã hội là cái nhìn rất nhân văn, rất tiến bộ. Nhà thơ lên án đồng tiền khi nó bị kẻ xấu làm cho biến chất, nhưng lại trân trọng những đồng tiền tình nghĩa trước sau. Nhà thơ căm thù những kẻ táng tận lương tâm vì tiền mà sẵn sàng chà đạp lên lương tâm, đạo lí, nhưng lại trân trọng những người như Thuý Kiều biết dùng đồng tiền vào việc cứu cha, cứu em và đền đáp ân tình, ân nghĩa.

Truyện Kiều - Tiếng nói hiểu đời của Nguyễn Du.

Giá trị của Truyện Kiều không chỉ thể hiện ở lí tưởng nhân văn của tác giả hay sự phê phán các thế lực đen tối, mà còn ở tấm lòng hiểu đời và sự bao dung thấm sâu vào từng lời thơ và từng chi tiết. Chính sự hiểu đời đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Du đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo.

Tác giả hầu như thấu hiểu mọi uẩn khúc của con người, nhìn rõ chỗ mạnh chỗ yếu, thậm chí cả chỗ tầm thường của họ. Tuỳ tính cách của từng nhân vật mà ông miêu tả với tấm lòng xót xa, thương cảm hay căm phẫn, khinh bỉ. Thuý Kiều và Từ Hải đều có phẩm chất cao thượng, mạnh mẽ, tuy nhiên cũng có khi yếu đuối, dại khờ hoặc sai lầm... nhưng vẫn chiếm trọn tình cảm yêu mến và bao dung của nhà thơ.

Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều thể hiện trước hết ở tình yêu con người. Với mỗi nhân vật, Nguyễn Du có một tình cảm riêng, nhưng đối với Thuý Kiều thì hầu như sự thương cảm, xót xa ấy nhân lên gấp bội. Người đọc xót thương Thuý Kiều chính vì Nguyễn Du đã ngậm ngùi rơi lệ trước cuộc đời đầy bi kịch của một thiếu nữ tài sắc mà lại bị giày vò, đày đoạ bởi xã hội phong kiến vạn ác:

Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!

Lời than vãn của Thuý Kiều cũng là tiếng khóc ngậm ngùi của biết bao phụ nữ bất hạnh. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du tuy mới chỉ xây dựng trên cơ sở là chữ nhân của đạo Khổng, hoặc theo tinh thần hiếu sinh của đạo Phật, chứ chưa có tính chiến đấu để bảo vệ con người, nhưng trong hoàn cảnh của xã hội phong kiến đương thời, nó vẫn vô cùng đáng quý.

Trong Truyện Kiều, những nhân vật bác ái từ bi rất ít. Giữa đám nha dịch đầu trâu mặt ngựa chỉ còn sót kẻ lại già có chút từ tâm. Trong chốn thanh lâu có Kiều Nhi, mụ quản gia là tốt bụng. Ngoài đời có vãi Giác Duyên, sư Tam Hợp giàu lòng thương người... Thi hào Nguyễn Du nói đến họ với thái độ trân trọng để đem lại cho người đọc một niềm hi vọng dù là nhỏ nhoi. Đồng thời, nhà thơ cũng giúp người đọc hiểu ra rằng tại sao trong giai đoạn suy tàn của chế độ phong kiến, lòng nhân từ lại hiếm hoi đến thế! Qua đó, Nguyễn Du nhằm gián tiếp khẳng định cái chế độ bất nhân đó không có lí do gì để tiếp tục tồn tại. Chính vì thế mà nhà Nho Cao Bá Quát đã đánh giá rất chính xác:“Truyện Kiều là tiếng nói hiểu đời”.

Về giá trị nghệ thuật: Truyện Kiều là đỉnh cao của nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật điển hình; là mẫu mực của nghệ thuật tự sự và trữ tình bằng thơ lục bát. Đặc biệt, ngôn ngữ trong Truyện Kiều hết sức trong sáng, trau chuốt và giàu sức biểu cảm. Với Truyện Kiều, ngôn ngữ thơ ca và thể thơ lục bát đã trở nên tuyệt vời và nghệ thuật tự sự đã phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, con người...

Khi miêu tả chị em Thuý Kiều, Thuý Vân, thi hào Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng mà vẫn gợi tả được vẻ đẹp ngoại hình và khắc hoạ nổi bật những nét riêng về tính cách, số phận của từng nhân vật. Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du trong Truyện Kiều xuất phát từ sự trân trọng, ca ngợi sắc đẹp, tài năng và phẩm giá của con người.

Nguyễn Du không biến nhân vật trong tác phẩm thành ví dụ sống sượng để minh hoạ cho tiêu chuẩn đạo đức, mà miêu tả họ như những cá thể có cuộc sống riêng, tính cách riêng rất chân thật, sống động, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nhân vật trong Truyện Kiều vừa có nét riêng nổi bật, vừa có nét điển hình, đặc biệt là về tâm lí. Chỉ bằng một vài từ ngữ cô đọng, hàm súc là tác giả đã làm nổi bật thần thái của nhân vật. Ví dụ như tả Tú Bà thì: Nhác trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì to béo đẫy đà làm sao; tả tên tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình. Bằng hai từ nhờn nhợt, ngây, nhà thơ đã bóc trần bản chất của hạng người buôn son bán phấn và tên quan dâm ô, đạo đức giả đại diện cho triều đình phong kiến thối nát.

Nguyễn Du có cách giới thiệu ngắn gọn, hàm súc nhấn mạnh vào tình huống và tính cách, tâm trạng nhân vật. Chỉ bằng vài câu thơ tả cảnh ngụ tình, ông đã phản ánh được tâm trạng cô đơn, lo lắng của Thuý Kiều lúc chia tay Thúc Sinh: Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường. Nỗi thương thân xót phận của Thuý Kiều khi ở lầu Ngưng Bích dồn tụ lại trong hai câu thơ vào hàng tuyệt bút: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa... Truyện Kiều quả là đã vượt khỏi cách kể chuyện quen thuộc để trở thành một cuốn tiểu thuyết bằng thơ. Với ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã biến thể thơ lục bát, dân dã thành một hình thức thơ trang nhã và giàu khả năng biểu cảm.

Ngôn ngữ Truyện Kiều vừa tự nhiên, trong sáng vừa hiện đại. Lời thơ tác giả viết ra cách đây đã hai trăm năm mà ngày nay vẫn còn mới mẻ. Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều được cá tính hoá cao độ, nhân vật nào ngôn ngữ ấy, không thể lẫn lộn. Tác giả sử dụng từ Hán - Việt, các điển cố, điển tích trong văn chương cổ điển rất đúng chỗ và hợp lí. Nghệ thuật đối được dùng khá nhiều và rất thành công. Nhịp điệu thơ thay đổi linh hoạt tuỳ theo cảnh và tình, tạo nên âm hưởng chung du dương, trầm bổng. Bằng Truyện Kiều, Nguyễn Du đã góp phần khẳng định và làm cho thơ ca tiếng Việt càng thêm giàu đẹp.

Truyện Kiều có giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực và giá trị nghệ thuật đạt tới trình độ xuất sắc nên được đánh giá là đỉnh cao của thơ ca tiếng Việt, được nhiều thế hệ người đọc trong suốt hai thế kỉ qua yêu thích. Sự nghiệp sáng tác của ông đã làm vẻ vang cho nền văn học dân tộc. Nguyễn Du được tôn vinh là Danh nhân văn hoá thế giới. Mộng Liên Đường chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng đã đề cao tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du đối với con người và cuộc đời: Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi đau đớn đến đứt ruột. Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hết, đàm tình đã thiết. Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có được cái bút lực ấy.