I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Bài Thái phó Tô Hiến Thành trích từ bộ sách Đại Việt sử lược, một di sản quý báu có giá trị nhiều mặt của nền văn hoá dân tộc, nói về Tô Hiến Thành, một vị đại thần của triều đình nhà Lí có tài năng và nhân cách hơn người.
- Người viết sử đã lựa chọn những sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời của Tô Hiến Thành để thông qua đó vừa làm nổi bật lòng trung thành tuyệt đối và tính cách trung thực hiếm có của ông, vừa thể hiện được sự phức tạp của nội bộ triều đình đương thời. Thông qua đó khẳng định: xã hội yên ổn phần lớn là nhờ vào các bậc đại thần thanh liêm chính trực, một lòng vì dân vì nước, uy vũ không thể khuất phục, danh lợi không thể làm đổi thay như Tô Hiến Thành.
2. Thân bài:
* Sự kiện thứ nhất: Lập vua mới theo di chúc của vua cha.
+ Lúc vua Lê Anh Tông sắp qua đời, triều chính rối ren, phức tạp. Trong nội bộ hoàng thất có nhiều mâu thuẫn gay gắt. Hoàng tử Long Sưởng được vua cha lập làm Thái tử nay mai sẽ nối ngôi, nhưng vì có lỗi nặng nên bị truất quyền. Trong di chiếu, vua Lí Anh Tông ghi rõ truyền ngôi cho hoàng tử Long Cán lúc này mới hai tuổi và chỉ định Tể tướng Tô Hiến Thành làm phụ chính cho ấu chúa.
- Thái hậu Thuỵ Châu lại muốn lập Long Sưởng lên ngôi. Bà ta tìm mọi cách vận động, lôi kéo Tô Hiến Thành để ông làm theo ý riêng của mình (dùng vàng bạc, lụa là hối lộ cho vợ Tô Hiến Thành nhờ nói giúp).
- Tô Hiến Thành đã dùng đạo lí làm người và trách nhiệm Tể tướng của mình để giải thích cho bà vợ hiểu là không thể làm như vậy.
- Thái hậu cố tình dùng miếng mồi danh vọng, phú quý để mua chuộc, Tô Hiến Thành khẳng khái bác bỏ.
- Thái hậu bất chấp lời can ngăn có lí có tình của Tô Hiến Thành. Ông đã kiên quyết dùng pháp luật để trị kẻ bất tuân pháp luật và kêu gọi các quan hãy giữ vững lòng trung nghĩa để cùng ông phò ấu chúa. Trước hết, ông dùng lí lẽ nhắc nhở lòng trung nghĩa của các quan trong triều, để họ cùng ông chặn đứng tham vọng và hành động vô đạo của Thái hậu và Long Sưởng. Lời ông nói vừa có lí, vừa có tình, nhằm thức tỉnh ý thức trách nhiệm trong hàng ngũ quan lại.
- Tô Hiến Thành bằng trí thông minh và thái độ cương quyết đã thực hiện được ý nguyện của vua Lê Anh Tông, giữ nghiêm phép nước, tránh cho triều đình một phen điên đảo. Lời nói và việc làm của ông thể hiện phẩm giá cao quý của một bậc chính nhân quân tử: Phú quý bất năng dâm..., uy vũ bất năng khuất... Tô Hiến Thành đã giữ trọn đạo trung quân ái quốc, không vì lợi ích riêng mà quên đi lợi ích lớn lao của dân tộc.
* Sự kiện thứ hai: Tiến cử người giữ chức Tể tướng.
+ Người viết sử đã kể chuyện Tô Hiến Thành tiến cử người thay thế mình bằng những chi tiết đặc sắc:
- Hoàn cảnh xảy ra sự kiện này: Tô Hiến Thành ốm nặng, khó có thể qua khỏi. Quan Tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Quan Gián nghị đại phu Trần Trung Tá bận bịu nhiều việc, không lúc nào rảnh rang để đến thăm.
- Thái hậu hỏi: Nếu có mệnh hệ nào, ai thay ông? Câu trả lời thẳng thắn của Tô Hiến Thành khiến Thái hậu hết sức ngạc nhiên: Chỉ có Trần Trung Tá mà thôi. Xét về lí, chức quan Tham tri chính sự lớn hơn chức Gián nghị đại phu. Xét về tình, Vũ Tán Đường gần gũi, gắn bó với Tô Hiến Thành hơn là Trần Trung Tá.
- Vậy nguyên nhân nào Tô Hiến Thành chọn Trần Trung Tá? Lời giải thích của Tô Hiến Thành lí giải rõ: Thái hậu hỏi người thay thần, nên thần nói tới Trung Tá ; nếu hỏi người hầu hạ phụng dưỡng thần thì phi Tán Đường còn ai nữa? Vấn đề đặt ra là chọn người thay chức Tể tướng kiêm Thái uý của Tô Hiến Thành hay chọn người hầu hạ phụng dưỡng Tể tướng kiêm Thái uý?
- Thông qua đoạn đối thoại ngắn gọn giữa Thái hậu và Tô Hiến Thành, tác giả đã đưa ra một tình huống có thật với kết quả ngược lại với lô gíc thông thường của người đời. Từ đó ca ngợi phẩm chất chính trực, chí công vô tư của vị đại quan đứng đầu triều đình nhà Lí.
3. Kết bài:
- Với lối kể chuyện chân thực, hấp dẫn, tác giả Đại Việt sử lược đã ghi lại được những sự kiện lịch sử trọng đại liên quan tới vận mệnh đất nước, dân tộc một cách trung thực; đồng thời khắc hoạ nổi bật tính cách cao thượng cùng phẩm giá đáng quý của Tô Hiến Thành - vị quan nổi tiếng trong lịch sử Đại Việt.
- Ngày nay, khi đọc các tác phẩm sử học như trên, người đọc không chỉ tìm được ở đó những kiến thức lịch sử mà còn tiếp thu được nhiều bài học quý báu về lẽ sống và kinh nghiệm đối nhân xử thế.
II. BÀI LÀM
Bài Thái phó Tô Hiến Thành trích từ bộ sách Đại Việt sử lược, một di sản quý báu của nền văn hoá dân tộc có giá trị về nhiều mặt. Đại Việt sử lược bị thất truyền từ lâu nên chưa tìm ra tác giả. Tác phẩm được in lần đầu tiên ở Trung Hoa thời Càn Long, thế kỉ XVIII. Đoạn trích nói về Tô Hiến Thành - một đại thần của triều đình nhà Lí có tài năng và nhân cách hơn người. Điều đó thể hiện qua hai sự kiện trọng đại có ảnh hưởng quan trọng đến các bước đi của lịch sử nước ta thời đó: việc lập vua theo di chiếu và chọn người thay mình giữ chức Tể tướng là chức đứng đầu bá quan văn võ kiêm chức Thái uý, thống lĩnh quân đội.
Hai sự kiện xảy ra ở hai thời điểm khác nhau (năm 1175 và năm 1179). Ở sự kiện thứ nhất, tác giả khắc hoạ tính cách Tô Hiến Thành bằng việc kết hợp giữa lời nói và việc làm của ông. Ở sự kiện thứ hai, tác giả chủ yếu kể về những lời nói của ông trước khi mất.
Người viết sử đã lựa chọn những sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời Tô Hiến Thành để vừa làm nổi bật nhân cách cao quý của ông, vừa thể hiện sự phức tạp của nội bộ triều đình phong kiến đương thời. Thông qua đó khẳng định: xã hội yên ổn phần lớn là nhờ vào các bậc đại thần thanh liêm chính trực, một lòng vì dân vì nước, uy vũ không thể khuất phục, danh lợi không thể làm đổi thay như Tô Hiến Thành.
Ở sự kiện thứ nhất, nhân cách của Tô Hiến Thành thể hiện trong hoàn cảnh triều chính có nhiều vấn đề phức tạp xảy ra. Nguyên trước đây, hoàng tử Long Sưởng đã được vua cha lập làm Thái tử, sau này sẽ nối ngôi những vì sau đó có lỗi nặng nên bị truất quyền, giáng xuống làm Bảo Quốc Vương: Sưởng tính háo sắc, trong cung có cung nữ nào được sủng ái, Sưởng đều tư thông. Anh Tông rất ghét y vô lễ. Nguyên phi Từ Thị được vua yêu, bà hậu bèn xúi Sưởng ngầm chuyện tư tình để Anh Tông ngờ vực, hòng làm Từ Thị bị lạnh nhạt. Từ Thị đem hết hành trạng của Sưởng bạch với Anh Tông, vì thế... mà phế đi.
Năm 1175, vua Lý Anh Tông mất, thế tử Long Cán lên ngôi khi mới được hai tuổi, lấy tên hiệu là vua Lí Cao Tông. Theo di chúc của vua cha, Tô Hiến Thành đang là Tể tướng phải đứng ra làm phụ chính cho ấu chúa.
Nhằm giữ vững quyền lực, Thái hậu Đỗ Thụy Châu có ý muốn lập Long Sưởng - anh của Long Cán lên ngôi. Những mâu thuẫn gay gắt bắt đầu nảy sinh từ đó. Nhưng chính sự phức tạp ấy của triều đình đã làm nổi bật lòng trung thành tuyệt đối và nhân cách cứng cỏi của Tô Hiến Thành. Bởi vì, phế lập vua là việc hệ trọng, không chỉ liên quan đến sự tồn vong của riêng triều đại đó, mà còn liên quan đến sự an nguy của đất nước.
Vậy là xung quanh việc phế lập Long Cán đã diễn ra cuộc đối đầu căng thẳng giữa một bên là Tô Hiến Thành và một bên là Thái hậu. Thái hậu có nhiều tham vọng. Bà đã dùng mọi thủ đoạn từ dụ dỗ, mua chuộc đến thách thức, doạ nạt để ép Tô Hiến Thành buộc phải làm theo ý mình, thực hiện một việc trái với đạo lí quân thần, trái với di chúc của Tiên đế. Cách ứng xử của Tô Hiến Thành đã thể hiện được bản lĩnh vững vàng của một bậc đại thần và nhân cách trong sáng của một bậc đại Nho.
Thái hậu biết rõ vai trò quyết định của Tô Hiến Thành trong triều đình, vì vậy bà ta tiến hành từng bước để lôi kéo vị quan thanh liêm về phía mình. Tô Hiến Thành cũng từng bước khôn khéo, thông minh và kiên định, dần dần đánh bại âm mưu của Thái hậu.
Trước hết, Thái hậu dùng vàng bạc, lụa là hối lộ vợ Tô Hiến Thành để nhờ bà thuyết phục chồng. Việc làm này khá tinh vi vì thường tình chồng hay nể vợ, nên dễ chấp nhận lời cầu xin của vợ. Tô Hiến Thành đã dùng đạo lí làm người và trách nhiệm Tể tướng của mình để giải thích cho bà vợ hiểu là không nên như vậy:
Ta ở ngôi Tể tướng, nhận lời cố thác của Tiên Vương để phò ấu chúa. Nay nhận đồ hối lộ của người mà mưu phế lập, thiên hạ sẽ nói ta như thế nào? Giá như mọi người đều là kẻ bưng tai bịt mắt không biết, thì ta biết lấy lời lẽ nào để trả lời Tiên Vương ở dưới suối vàng?
Tiếp theo, Thái hậu dùng miếng mồi danh vọng và phú quý để trực tiếp dụ dỗ Tô Hiến Thành. Lời của Thái hậu vừa có vẻ ca ngợi ông, vừa đánh trúng tâm lí của người lớn tuổi:
Ông đối với nước nhà, có thể gọi là trung đấy! Song, tuổi ông đã xế chiều mà thờ ấu chúa thì việc làm của ông ai người biết đến? Chi bằng, lập vua đã trưởng thành thì người đó sẽ đem ơn đức mà ban cho. Ông giữ được phú quý lâu dài, há chẳng nên ư?
Tô Hiến Thành dùng ngay lời dạy về đạo lí làm người của Khổng Tử và cách đối xử với người quá cố trong truyền thống dân tộc để bác bỏ lời dụ dỗ ấy: Bất nghĩa mà được phú và quý, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm. Huống chi, lời di chúc của Tiên Vương còn ở bên tai. Đối với công luận sẽ như thế nào? Thần không dám vâng lời.
Cuối cùng, Thái hậu bất chấp pháp luật, liều lĩnh triệu Long Sưởng vào để tự lập làm vua. Nếu Tô Hiến Thành cả nể hoặc sợ hãi không giữ nghiêm phép nước thì Thái hậu đã thành công. Nhưng ông đã kiên quyết dùng pháp luật để trừng trị kẻ bất tuân pháp luật. Trước hết, ông dùng lí lẽ nhắc nhở lòng trung nghĩa của các quan trong triều, để họ cùng ông chặn đứng tham vọng và hành động vô đạo của Thái hậu và Long Sưởng. Lời ông nói vừa có lí, vừa có tình:
Tiên Vương thấy tôi với các ngài gắng hết sức vì vương thất, không ăn ở hài lòng, nên đem ấu chúa mà phó thác. Nay Bảo Quốc Vương dùng lệnh của Thái hậu, nói rằng, phế chúa thượng mà tự lập. Các ngài phải tận lòng trung, đem hết sức mình, nghe lời ta. Kẻ vâng lời ta, được thưởng lâu dài, kẻ trái mệnh ta sẽ bị giết phơi ngoài chợ. Các ngài nên gắng sức.
Tô Hiến Thành đã phá vỡ âm mưu phản nghịch, đồng thời thức tỉnh ý thức trách nhiệm trong hàng ngũ quan lại. Vì vậy, âm mưu soán ngôi của Thái hậu đã không thành, sơn hà xã tắc tránh được một phen điên đảo.
Qua những lời nói và việc làm trên, người đọc thấy rõ phẩm chất cao quý của Tô Hiến Thành: hiền đức, cương trung, giữ nghiêm kỉ cương phép nước. Đó là phẩm chất của bậc chính nhân quân tử: Phú quý bất năng dâm... uy vũ bất năng khuất. (Giàu sang không làm cho chìm đắm; uy quyền, vũ lực không làm cho khuất phục). Tô Hiến Thành bình tĩnh, sáng suốt đánh bại âm mưu phế lập của Thái hậu mà vẫn giữ được hoà khí, không gây đổ máu, dân chúng vẫn được sống trong cảnh yên bình. Ông đã giữ đúng đạo trung quân ái quốc.
Không chỉ trung nghĩa, Tô Hiến Thành còn là người không ham tư lợi, không vì lợi ích cá nhân mà quên lợi ích dân tộc. Cách ứng xử của ông đối với âm mưu phế lập của Thái hậu đã thể hiện lòng trung nghĩa tuyệt vời, hiếm có.
Người viết sử đã kể chuyện Tô Hiến Thành tiến cử người thay thế mình bằng những chi tiết chọn lọc đặc sắc. Về lí, chức Tham tri chính sự to hơn chức Gián nghị đại phu, nghĩa là Vũ Tán Đường chức cao hơn Trần Trung Tá. Về tình, Vũ Tán Đường gần gũi, gắn bó và có ân tình với Tô Hiến Thành hơn Trần Trung Tá: khi Tô Hiến Thành ngã bệnh, chỉ có Tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Quan Gián nghị đại phu Trần Trung Tá bận bịu nhiều việc, không lúc nào rảnh rang để đến thăm.
Thái hậu hỏi: Nếu có mệnh hệ nào, ai thay ông? Thông thường, về tình cũng như về lí, ai cũng nghĩ rằng Tô Hiến Thành sẽ tiến cử Vũ Tán Đường. Nhưng Tô Hiến Thành đã trả lời: Chỉ có Trần Trung Tá mà thôi. Câu nói ấy thật sự gây ngạc nhiên cho Thái hậu.
Thái hậu nhắc đến ân tình và sự gắn bó của Vũ Tán Đường đối với Tô Hiến Thành. Người đọc sẽ nghĩ rằng Tô Hiến Thành hoặc ngả theo ý Thái hậu, hoặc giải thích rằng Vũ Tán Đường không đủ năng lực làm Tể tướng. Nhưng không, ông đã đáp lại bằng một câu hết sức bất ngờ : Thái hậu hỏi người thay thần, nên thần nói tới Trung Tá; nếu hỏi người hầu hạ phụng dưỡng thần thì phi Tán Đường còn ai nữa?
Tiếng cười thú vị bật ra từ nghịch lí: chọn người thay chức Tể tướng kiêm Thái uý hay chọn người hầu hạ phụng dưỡng Tể tướng kiêm Thái uý?
Lúc này, Tô Hiến Thành đang ốm nặng. Thường thì trước khi qua đời, về mặt tâm lý người ta dễ bỏ qua mọi việc, chấp nhận cho xong để được yên thân. Những câu trả lời của Tô Hiến Thành cho thấy ông vẫn rất sáng suốt, thậm chí còn hóm hỉnh và đầy trách nhiệm đối với đất nước cho đến hơi thở cuối cùng.
Thông qua đoạn đối thoại ngắn gọn giữa hai nhân vật Thái hậu và Tô Hiến Thành, tác giả đưa ra một tình huống có thật với kết quả ngược lại lôgíc thông thường của người đời. Từ đó, khẳng định phẩm chất chính trực đặc biệt của Tô Hiến Thành bằng tiếng cười thán phục.
Là một quan chức trụ cột của triều đình, Tô Hiến Thành biết đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Ông làm việc bằng lí lẽ chứ không vì tình cảm riêng tư. Chọn người gánh vác được trọng trách đối với đất nước, đó là lương tâm và trách nhiệm của một vị đại thần. Song rất tiếc, Đỗ Thái hậu lại thường xuyên đối lập với Tô Hiến Thành. Bà ta đã đặt quyền lợi quốc gia xuống dưới quyền lợi gia đình và quyền lợi bản thân nên đã chọn Đỗ An Thuận, em trai của bà lên làm Phụ chính cho ấu chúa sau khi Tô Hiến Thành mất. Hai cách ứng xử khác nhau ấy càng làm nổi bật nhân cách cao đẹp của Tô Hiến Thành. Bên cạnh đó, người viết sử đã phản ánh hiện thực phức tạp của đất nước dưới triều đại cuối cùng của nhà Lí. Trong khi những người như Tô Hiến Thành mang hết tâm sức để giữ gìn sự yên bình cho xã tắc, thì những người như Đỗ Thái hậu, Long Sưởng... lại luôn tìm cách tranh thủ mọi cơ hội, dùng mọi âm mưu đen tối để thực hiện tham vọng của mình, dù tham vọng ấy có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sơn hà, xã tắc,
Với lối kể chuyện chân thực, hấp dẫn, tác giả Đại Việt sử lược đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người viết sử, ghi lại được những sự kiện lịch sử trọng đại liên quan đến vận mệnh của dân tộc một cách trung thực. Song, cái tài của tác giả là ghi chép lại những sự kiện ấy một cách sinh động và có nghệ thuật, qua đó làm nổi bật nhân cách lớn lao của Tô Hiến Thành; đồng thời biểu lộ thái độ khen chê, yêu ghét của mình một cách rõ ràng. Ngày nay, khi đọc các tác phẩm sử học như trên, những thế hệ sau không chỉ tìm được ở đó tri thức về lịch sử mà còn cả những bài học quý báu về lẽ sống và kinh nghiệm đối nhân xử thế.