I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Trong cơn gia biến, một mình Thuý Kiều đứng ra cáng đáng, thu xếp mọi việc. Nàng băn khoăn cân nhắc giữa hiếu và tình rồi quyết định bán mình chuộc cha. Nàng không đành lòng với tình cảnh dang dở của Kim Trọng nên cuối cùng đành nhờ em gái là Thuý Vân thay mình đền đáp mối tình với chàng.

- Đoạn trích đã phản ánh một quan niệm rất đẹp về tình yêu: yêu không phải chỉ là vì mình mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu. Đồng thời, cũng nói lên nỗi đau đớn đến cực độ khi tình yêu tan vỡ. Đặc biệt, đoạn thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của tác giả trong việc miêu tả diễn biến tâm lí thông qua lời đối thoại và độc thoại của nhân vật.

2. Thân bài:

* Bố cục đoạn trích gồm hai phần:

- Phần một: Từ câu 1 đến câu 14: Thuý Kiều trao duyên nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

- Phần còn lại: Tâm trạng đau đớn của Thuý Kiều sau khi trao duyên.

* Nội dung đoạn trích:

+ Thuý Kiều trao duyên nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

- Trước sự thực phũ phàng là ngày mai mình sẽ thuộc về tay kẻ khác (Mã Giám Sinh), Thuý Kiểu cảm thấy có lỗi trong sự dang dở của mối tình đầu với Kim Trọng, dẫn đến sự bất hạnh cho chàng: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Nàng chấp nhận số phận đen bạc, một lòng một dạ nghĩ tới người yêu. Suy đi nghĩ lại, nàng thấy chỉ có một cách cứu vãn phần nào mối lương duyên tốt đẹp của hai người: đó là trao duyên cho em gái.

- Đây là một việc hết sức khó khăn. Thuý Kiều lâm vào tình thế nan giải: không nói thì không được, mà nói ra thì sợ chưa chắc Thuý Vân đã nhận lời. Ngập ngừng mãi, Thuý Kiều mới ngập ngừng bày tỏ: Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Cách dùng từ trong hai câu thơ này thể hiện rất rõ tâm thế của Kiều lúc này là hạ mình để cầu xin một sự giúp đỡ từ chính em gái. Điều đó chứng tỏ Thuý Kiều đang trong tâm trạng rối bời rất đáng thương.

- Có sự khác biệt giữa từ nhờ và từ cậy. Nếu dùng từ nhờ, âm hưởng câu thơ sẽ nhẹ đi, không lột tả được tâm trạng quằn quại khó nói và cái thế cầu luỵ của Thuý Kiều lúc này. Từ chịu trong chịu lời cũng rất chính xác. Nhận lời có nội dung tự nguyện, còn chịu lời lại có nội dung ép buộc. Tình thế của Thuý Vân lúc này thì chỉ có chịu lời nhờ vả khẩn thiết của chị gái mà thôi. Thuý Kiều coi đó là một sự hi sinh, một ơn đức mà em gái dành cho mình.

- Trong những giây phút tột cùng đau đớn, Thuý Kiều vẫn quên mình để nghĩ tới người yêu. Nỗi đau trong lòng nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt nên nàng đã tâm sự với em những điều riêng tư vốn rất khó nói. Nàng van lơn em gái hãy thương chị mà thay chị trả món nợ tình cho Kim Trọng: Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non; đồng thời bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình: Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây... Nàng trao lại cho em gái những kỉ vật tình yêu: Chiếc vành với bức tờ mây, Duyên này thì giữ vật này của chung. Trước lời lẽ có lí có tình tha thiết của Thuý Kiều, Thuý Vân không nỡ chối từ.

+ Tâm trạng đau đớn của Thuý Kiều sau khi trao duyên:

- Trao duyên và trao lại kỉ vật xong, Thuý Kiều tan nát cả cõi lòng. Nàng tưởng tượng ra mình chỉ còn là mảnh hồn oan. Sự bình tĩnh, sáng suốt ban đầu không còn nữa và Kiều đã rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng giọng điệu của nàng đã phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về.

- Từ thương người (thương Kim Trọng), Thuý Kiều chuyển sang thương thân. Từ chỗ nói với em, Thuý Kiều chuyển sang nói với mình rồi nói với người yêu. Những chi tiết ấy thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp của Thuý Kiều và nỗi đau đớn càng về sau càng tăng lên gấp bội khiến trái tim Thuý Kiều như ngừng đập.

3. Kết bài:

- Đoạn trích Trao duyên được tác giả viết bằng cảm xúc xót thương chân thành, thể hiện bị kịch tình yêu đau đớn của Thuý Kiều; đồng thời bộc lộ phẩm chất vị tha cao quý của nàng trong tình yêu.

- Nguyễn Du đã thể hiện năng lực thấu hiểu con người và đã miêu tả thành công diễn biến tâm lí nhân vật thông qua lời đối thoại và độc thoại.

II. BÀI LÀM

Trong cơn gia biến, một mình Thuý Kiều đứng ra cáng đáng, thu xếp mọi việc. Băn khoăn cân nhắc giữa hiếu và tình, Kiều thấy cả hai đều rất nặng, nhưng rồi nàng quyết định bán mình chuộc cha. Cha và em được tha về, việc nhà đã tạm ổn, Kiều mới nghĩ đến chuyện tình duyên. Trước hết, nàng nghĩ đến nỗi khổ của người yêu. Phận mình dù thế nào cũng đành, nhưng nàng không đành lòng với tình cảnh của chàng Kim. Phải làm sao cho người yêu đỡ khổ. Suy nghĩ mãi, cuối cùng Kiều đành nhờ em gái là Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Đoạn trích đã thể hiện một quan niệm rất đẹp về tình yêu: yêu không phải chỉ là vì mình mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu. Đồng thời, đoạn trích cũng nói lên nỗi đau đớn đến cực độ khi tình yêu tan vỡ. Đặc biệt, đoạn thơ thể hiện rất rõ tài năng của tác giả trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, sử dụng lời thoại và độc thoại của nhân vật.

Có thể chia đoạn trích làm hai phần:

Phần 1: Từ câu 1 đến câu 14: Thuý Kiều quyết định trao duyên, nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Phần 2: Từ câu 15 đến hết: Tâm trạng đau đớn của Thuý Kiều sau khi trao duyên.

Đoạn trích thực ra là một lời thoại khá dài của nhân vật Thuý Kiều và tính chất lời thoại thay đổi theo diễn biến cảm xúc. Ở phần 1, Thuý Kiều xưng hô chị, em rõ ràng với Thúy Vân. Từ dòng 15 đến dòng 26, sau khi đã trao duyên, Thuý Kiều cảm thấy hạnh phúc của mình đến đây chấm dứt nên tự xưng mình là người mệnh bạc, người thác oan. Từ dòng 27 cho đến hết, nàng như quên rằng đang nói chuyện với em, đột nhiên chuyển sang nói với Kim Trọng đang vắng mặt. Đó là lời đối thoại đau đớn của Thuý Kiều với người yêu trong tâm tưởng.

Ở đoạn trước đoạn trích này, tác giả đi sâu vào việc diễn tả tâm trạng Thuý Kiều trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác (Mã Giám Sinh). Nàng cảm thấy như chính mình đã gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu. Trong đêm gia biến, Thuý Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió: Một mình một ngọn đèn khuya, Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu.

Nàng day dứt, băn khoăn tự trách: Vì ta khăng khít cho người dở dang. Đúng ra là cả hai người cùng chủ động bày tỏ tình yêu và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cảm như vậy là vì nàng luôn nghĩ đến người yêu, ngay cả trong lúc đau thương tột bậc. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ một cách có thể cứu vãn phần nào mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Nghĩ là làm, Thuý Kiều đã trao duyên cho Thuý Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân.

Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em gái thì cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tâm, khó có thể đổi thay. Nay nhờ em thay thế mình kết duyên với Kim Trọng, Thuý Kiều sợ chưa chắc Thuý Vân đã nhận lời.

Kiều lâm vào tình thế khó xử: không nói không được mà nói ra thì ngượng ngùng, e ngại. Bởi thế nên nàng đắn trước đo sau, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải động lòng thương xót:

Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Lời của Kiều là lời gì vậy? Đó là lời Kiều nhờ em thay mình nối duyên với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ, bất ngờ ngay cả đối với Thuý Kiều, bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ tới. Suốt một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này mà chỉ sống trong tâm trạng đau khổ, giày vò. Nhưng từ lúc Thuý Vân thức giấc và an ủi chị thì Thuý Kiều như vụt thấy một làn chớp sáng: “Đây rồi! Cô em gái này có thể giúp mình trả món nợ tình”. Đề nghị ấy cũng bất ngờ đối với Thuý Vân bởi nó vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nhận lời lấy một người làm chồng đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà? Vậy dựa vào đâu mà Thuý Kiều dám đưa ra ý kiến đột ngột ấy và hầu như một mực nài ép Thuý Vân phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất là tình thương. Chị thương em, tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết là em thương chị, không nỡ trái ý chị. Còn em, tuy chưa kịp hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, giờ lại đang đau đớn vì mối tơ duyên đứt đoạn nên nghe lời giãi bày, chắc cũng hiểu phần nào nỗi lòng của chị.

Có điều đáng chú ý là tại sao Thuý Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính là vì giữa các từ ấy có một sự khác biệt khá tinh vi. Thay cậy bằng nhờ không những âm điệu câu thơ sẽ nhẹ hơn mà còn làm giảm đi sự quằn quại khó nói của Kiều, giảm đi ý nghĩa hi vọng thiết tha của một lời dối dăng, ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tấm lòng đang trong cơn tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm chị em ruột thịt. Giữa chịu và nhận dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có nội dung tự nguyện; còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận và không nhận không được. Cần phải nói thêm là từ có giống như sự ướm hỏi nhưng thực chất là ép buộc. Trong tình thế của Thuý Vân lúc bấy giờ thì chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được?

Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu và sức nặng của một tình thế phức tạp, một tâm trạng phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện.

Thuý Kiều năn nỉ Thuý Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa, vì nàng coi sự chịu lời của Thuý Vân là một nghĩa cử. Đối với nghĩa cử cao đẹp có tính chất hi sinh thì nàng phải có thái độ kính phục và biết ơn. Thuý Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy. Rồi sau đó, nàng kể cho Thuý Vân nghe hết về tình yêu và tình cảnh dang dở của mình lúc này:

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Hai chữ mặc em trong câu Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em càng nói rõ cái ý Kiều muốn giao phó cho em trách nhiệm đền đáp nghĩa tình với chàng Kim. Trong những giây phút đau đớn tột cùng, Thuý Kiều vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu và nàng thấy cần phải san sẻ cho vơi bớt nỗi buồn đang đè nặng trái tim mình. Sau cái phút ban đầu khó nói, nàng đã chân thành bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Tâm sự về sự phân vân khó bề lựa chọn giữa tình và hiếu:

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai.

Là người con hiếu thảo, Kiều đã tự nguyện bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó trả:

Nợ tình chưa trả cho ai,

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

Ý nghĩ này cho thấy Thuý Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào! Nàng van lơn em gái hãy Xót tình máu mủ thay lời nước non mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thuý Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận mình, tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơi:

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Tưởng tượng ra cái chết thê thảm là biểu hiện của sự thương thân tủi phận cao độ, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với nghĩa cử cao đẹp của Thuý Vân. Nghe chị gái bày tỏ những lời gan ruột như thế, hỏi Thuý Vân sao nỡ chối từ?

Ngôn ngữ của Kiều lúc đầu là ngôn ngữ sáng suốt của lí trí. Tuy Kiều rất đa cảm nhưng với chuyện trọng đại của cả một đời người thì nàng không thể dùng tình cảm đơn thuần mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh dùng lí lẽ phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà vui lòng giúp.

Trước lời nói có lí, có tình tha thiết của Thuý Kiều, Thuý Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và chấp nhận. Đến đây, Thuý Kiều mới nhẹ lòng. Nàng lấy kỉ vật tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái:

Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Bức tờ mây là tờ giấy hoa tiên ghi lời thề nguyền của Thuý Kiều và Kim Trọng. Chiếc vành (một loại nữ trang bằng vàng hoặc bạc) trước đây chàng Kim trao cho Kiều làm tin, bây giờ Kiều trao lại cho Vân. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn có vẻ bình tĩnh, nhưng đến lúc trao lại kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Hai câu thơ: Chiếc vành với bức tờ mây, Duyên này thì giữ, vật này của chung nghe như tiếng nấc nghẹn ngào của Thuý Kiều. Duyên này là duyên giữa Thuý Vân với Kim Trọng, chứ phần nàng kể như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em, nhưng những kỉ vật này thì xin em hãy coi là của chung bởi còn có một phần của chị. Rõ ràng, lí trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với chàng Kim, nhưng tình cảm của nàng thì không thể tuân theo một cách dễ dàng.

Có điều đặc biệt nằm ở mấy chữ giữ và của chúng. Chữ giữ không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ đưa cho em giữ hộ; còn chữ của chung thì quá rõ, nó thể hiện tâm lí có tính bản năng là Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho em. Những chữ đó chứng tỏ tình yêu của nàng với Kim Trọng là nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em. Hành động này khẳng định Thuý Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết.

Mối tình đầu trong sáng, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Xin gửi gắm lại chút tình trong kỉ vật này vậy! Giữa tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố tự an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn. Nàng nói với em bằng tiếng nói khác. Ngôn ngữ của nàng lúc này không còn cái mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm và có cả ảo giác. Càng nói, Kiều càng xót xa cho duyên phận bất hạnh của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tình mình đã mất và tất cả đã thành quá khứ:

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Đả động đến tương lai chắc chắn là mù mịt, Kiều không còn giữ được sự yên lòng trong phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Nàng tưởng tượng đến lúc Thuý Vân và Kim Trọng nên vợ nên chồng, còn mình chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây, nhưng vẫn còn vướng chặt với mối tình riêng, vấn vương với tiếng tơ trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai cho người. Nghĩ đến đấy, Thuý Kiều tha thiết dặn em hãy: Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Tất cả những điều ấy có mâu thuẫn với nhau không?

Trên kia, Thuý Kiều đã chẳng nói là nếu được Thuý Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn, nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chỉ sau giây lát tưởng tượng ra những điều bi thảm, nàng lại càng xót xa, tuyệt vọng hơn trước.

Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người. Nay, lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng đau đớn, sợ hãi trước tương lai mịt mù, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo mà đã như nửa tỉnh nửa mê, nửa phần là người sống, nửa phần đã là hồn ma. Tuy vẫn tiếp tục nói với Vân những lời Kiều đã phảng phất giống như lời nói từ cõi bên kia vọng về.

Khi đã trao duyên cho Thuý Vân, tức là đã quyết định dứt tình với Kim Trọng, Kiều thấy hạnh phúc của mình đến đây là chấm dứt nên lời lẽ của nàng bỗng chốc chuyển sang thương thân. Giọng thơ cũng bất chợt thay đổi. Thuý Kiều tưởng tượng ra cảnh oan hồn của mình sẽ tìm về theo ngọn gió. Âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ ), không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím), hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió)... Tất cả đều nói lên rằng Thuý Kiều đang sống trong tâm trạng khổ đau và càng khổ đau gấp bội.

Nghĩ đến tương lai mịt mù, vô định, Kiều hoang mang, tuyệt vọng. Nàng nức nở khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà sao ngắn ngủi:

Bây giờ trâm gãy, gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Đó là tiếng khóc thương cho số phận bất hạnh, là tiếng kêu đứt ruột cho tình yêu dang dở của Thuý Kiều.

Từ chỗ nói với em, nàng chuyển sang nói với mình, nói với người yêu, từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc than. Điều ấy thể hiện sự chuyển biến liên tục của tâm trạng Thuý Kiều mà nỗi đau đớn cứ tăng lên mãi, đau đớn cho phận sao phận bạc như vôi, càng đau đớn do phận bạc nên mình buộc phải phụ người:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Thuý Kiều buộc phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành đắc tội với chàng Kim và gửi vọng theo chàng trăm nghìn cái lạy.

Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều. Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã sắp xếp, lo lắng cho Kim Trọng, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảnh khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau cho mình nhưng trước hết vẫn cứ một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau không giảm mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi đau đớn đã lên đến tột đỉnh khiến Kiều phải thốt lên:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thối thiếp đã phụ chàng từ đây!

Đoạn trích Trao duyên là những dòng thơ lâm li thể hiện bị kịch tình yêu đau đớn bậc nhất trong Truyện Kiều. Cơ sở của tính bi kịch là ở sự hi sinh, có thể nói hai lần Kiều hi sinh tình yêu của mình. Lần thứ nhất, trong mối tương quan giữa chữ tình và chữ hiếu, Kiều đã hi sinh tình yêu của mình để trọn đạo làm con. Lần thứ hai, đối với Kim Trọng, Kiều lại hi sinh tình yêu của mình vì hạnh phúc của người yêu. Hai sự hi sinh ấy, một mặt làm cho nhân vật trở nên cao thượng, nhưng mặt khác nỗi đau đớn, xót xa lại cho thấy hết cái giá của sự hi sinh, nó làm thức tỉnh ý thức về tình yêu, về hạnh phúc cá nhân. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao quý của Thuý Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng cố gắng làm tất cả những gì có thể được để cho người mình yêu được hạnh phúc. Tuy nhiên, nàng vẫn đau đớn cực độ khi đành phải tự nguyện từ bỏ tình yêu. Nhờ thế mà đoạn trích Trao duyên đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ.

Qua đoạn trích, Nguyễn Du còn thể hiện năng lực thấu hiểu con người qua việc miêu tả tâm lí nhân vật, sử dụng thành công lời đối thoại và độc thoại của nhân vật. Nhà thơ đã miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thuý Kiều. Nàng đau khổ, quần quại đâu phải vì bản thân mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu... Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người yêu đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người yêu được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động thật sự trong lòng người đọc suốt mấy trăm năm qua.