I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Vào dịp đi chơi tiết Thanh minh cùng hai em, Thuý Kiều đã gặp Kim Trọng. Trong thoáng chốc, Thuý Kiều - Kim Trọng đã cảm mến nhau: Tinh trong như đã mặt ngoài còn e. Tình yêu của họ bắt đầu nảy nở và hình bóng của người này đã in đậm trong trái tim người khác.

- Một hôm, nhân lúc cha mẹ vắng nhà, Thuý Kiều đã chủ động tìm sang gặp gỡ Kim Trọng. Đoạn trích Thề nguyện kể về cảnh hai người gặp nhau tại nhà trọ của Kim Trọng, cùng uống rượu, ngâm thơ và thề nguyền gắn bó trăm năm. Thông qua nghệ thuật kể chuyện và miêu tả, Nguyễn Du đã ca ngợi tình yêu tự do trong sáng và say đắm của đôi trai tài gái sắc vượt lên trên những ràng buộc khắt khe của luân lí phong kiến đương thời.

2. Thân bài:

* Khát vọng tình yêu mãnh liệt của Thuý Kiều.

+ Nhân vật chính là Thuý Kiều. Nàng giữ vai trò chủ động và thi hào Nguyễn Du đã dành nhiều tâm huyết cùng cảm xúc để viết về nàng.

- Khung cảnh đêm trăng nơi vườn Thuý thật thơ mộng, làm nền cho tình yêu trong sáng, đẹp đẽ của Kim - Kiều. Không gian có ánh trăng mờ ảo, có ánh đèn hắt hiu lọt ra từ phòng học của chàng Kim. Dưới ánh trăng thanh, gót sen của Thuý Kiều đang nhẹ nhàng lướt lại gần khiến chàng Kim chợt tỉnh giấc hoè, sau đó lại rơi ngay vào trạng thái ngạc nhiên, lâng lâng sung sướng và ngập tràn hạnh phúc: Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần, Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

- Trong đoạn trích này, tác giả đã sử dụng các từ miêu tả hành động và tình cảm mỗi lúc một cao hơn, táo bạo hơn. Từ láy Xăm xăm, động từ băng, tình huống vườn khuya một mình, kết hợp với nhịp thơ nhanh, âm hưởng gấp gáp... đã miêu tả chính xác thái độ chủ động, tâm trạng sốt ruột của Thuý Kiều và nhịp điệu khẩn trương của đêm thề nguyền.

- Kim Trọng đón tiếp người yêu với thái độ rất trân trọng. Thuý Kiều chủ động bày tỏ tình yêu. Trong lời nói chân thành của Kiều đã thấp thoáng dự cảm lo âu về sự chia lìa đôi ngả. Nghe Thuý Kiều nói như vậy, Kim Trọng vô cùng cảm động, cùng ghi lòng tạc dạ lời thề nguyền kết tóc se tơ.

- Tác giả đặc tả không khí khẩn trương, gấp gáp của lễ thề nguyền bất ngờ, không hề được chuẩn bị trước. Tuy vậy, buổi lễ vẫn diễn ra trong không khí thiêng liêng. Mối tình trong sáng và lời thề nguyền vàng đá của Kim Trọng - Thuý Kiều đã được Vừng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám. Vì thế mà nó trở thành kỉ niệm sâu sắc không thể nào quên trong đời Kiều.

3. Kết bài:

- Trong đoạn trích trên, Nguyễn Du đã khéo léo kết hợp bút pháp kể chuyện với bút pháp miêu tả và ngôn ngữ nhân vật để tạo nên khung cảnh một đêm thề nguyền huyền ảo, trang nghiêm và độc đáo. Dường như tác giả là người trong cuộc, được chứng kiến, trân trọng, nâng niu và chia sẻ tình yêu, hạnh phúc của lứa đôi Kim - Kiều; một tình yêu chân thành, trong sáng đã dũng cảm vượt qua những ràng buộc khắt khe, vô lí của chế độ phong kiến.

- Đây cũng chính là quan điểm tiến bộ của Nguyễn Du đối với tình yêu và hôn nhân tự do, tự nguyện. Trong xã hội phong kiến đương thời thì mối tình lãng mạn tuyệt vời như thế là một ước mơ tốt đẹp, thấm nhuần tinh thần nhân đạo.

II. BÀI LÀM

Vào dịp đi chơi tiết Thanh minh cùng hai em, Thuý Kiều đã gặp Kim Trọng, bạn của Vương Quan. Chỉ trong thoáng chốc: Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Tình yêu kì lạ giữa họ bắt đầu nảy nở từ đây. Ngay trong đêm hôm ấy, hình bóng phong nhã, hào hoa của Kim Trọng đã in đậm trong tâm hồn Thuý Kiều, khiến trái tim nhạy cảm của nàng thổn thức. Nàng băn khoăn tự hỏi: Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không? Còn Kim Trọng thì cũng: Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, Nhớ nơi kì ngộ vội dời chân đi, ao ước được gặp lại Thuý Kiều lần nữa. Như mối lương duyên tiền định, Kiều làm vương chiếc kim thoa cài đầu trên cành đào trong vườn Thuý, Kim Trọng nhặt được đem trả và nhân thể bày tỏ nỗi niềm thầm yêu trộm nhớ. Họ trao đổi kỉ vật cho nhau: Giở kim thoa với khăn hồng trao tay và hứa hẹn sẽ chung thuỷ cùng nhau.

Rồi một hôm, nhân lúc cha mẹ và các em về quê ngoại dự tiệc sinh nhật, Thuý Kiều đã chủ động sang gặp người yêu. Đoạn trích kể về cảnh hai người gặp gỡ tại nhà trọ của Kim Trọng và cùng nhau thề nguyền gắn bó trăm năm dưới Vừng trăng vằng vặc giữa trời.

Thông qua nghệ thuật kể chuyện và miêu tả có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và bút pháp cổ điển, Nguyễn Du đã ca ngợi tình yêu tự do trong sáng và say đắm của đôi trai tài, gái sắc, vượt lên trên những rào cản, ràng buộc khắt khe của giáo lí phong kiến đương thời.

Đoạn trích này có liên quan với các đoạn khác trong Truyện Kiều, ví dụ như đoạn Trao duyên. Những hình ảnh đốt lò hương ấy, so tơ phím này mà Kiều nhắc đến trong lời kể với Thuý Vân chính là những hình ảnh trong đêm thề nguyền này. Thuý Kiều bị ám ảnh bởi tính chất mong manh, bất định của tình yêu sau khi thắp hương ở nấm mồ cô quạnh của Đạm Tiên. Trong mơ, Kiều gặp hồn ma người kĩ nữ bất hạnh ấy và từ đó nàng luôn bị ám ảnh bởi bốn chữ tài hoa bạc mệnh.

Thuý Kiều là nhân vật chính trong cảnh Thề nguyền nên tác giả đã dành nhiều câu thơ tâm huyết để viết về nàng. Mải mê tình tự với người yêu trọn một ngày, đến xẩm tối Kiều mới sực tỉnh, bèn e thẹn nói rằng: Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai rồi vội vàng chia tay. Cha mẹ và hai em vẫn chưa về, nàng lại vội vàng sang với chàng Kim lần nữa:

Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ có khả năng gợi tả, gợi cảm mỗi lúc một cao để miêu tả khát vọng tình yêu của Thuý Kiều. Từ láy xăm xăm tả bước chân Kiều đi rất nhanh, rất quả quyết; động từ băng thể hiện sự táo bạo, liều lĩnh của nàng khi dám tìm lối tắt qua vườn khuya để sang nhà Kim Trọng. Nhịp thơ ngắn, gấp gáp: Xăm xăm / băng lối / vườn khuya / một mình đặc tả thái độ chủ động và tâm trạng sốt ruột của Kiều mong được nhanh chóng gặp lại người yêu. Đồng thời, dường như phần nào Kiều muốn tranh đua với thời gian và phủ nhận định mệnh đang ám ảnh, phần khác cũng vì tình yêu mãnh liệt thôi thúc.

Khung cảnh đêm trăng trong vườn Thuý có vẻ đẹp huyền ảo và thơ mộng, như xui khiến những người đang yêu tìm đến với nhau:

Nhặt thưa gương giọi đầu cành,

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.

Sinh vừa tựa án thiu thiu,

Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.

Tiếng sen sẽ động giấc hoè,

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.

Trong cái đêm thần tiên ấy, không gian được Nguyễn Du miêu tả bằng hình ảnh ánh trăng chiếu qua vòm lá in những mảng sáng tối mờ tỏ không đều trên mặt đất: Nhặt thưa gương giọi đầu cành. Ánh đèn từ phòng học của Kim Trọng lọt ra dìu dịu, hắt hiu. Tiếng gót sen của Thuý Kiều nhè nhẹ đến gần khiến cho: Sinh vừa tựa án thiu thiu, Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê, bỗng sực tỉnh để rồi lại rơi ngay vào trạng thái vừa ngạc nhiên, vừa lâng lâng sung sướng, vì không tin đó là sự thực. Kim Trọng không ngờ bóng dáng nàng Kiều đang thấp thoáng trong giấc mơ bỗng hiện ra trước mắt:

Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần,

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

Là một văn nhân nho nhã, lại đang say đắm Thuý Kiều nên Kim Trọng đã tiếp đón Kiều rất trân trọng và lắng nghe tâm sự của nàng. Thuý Kiều chủ động tìm sang và cũng chính nàng chủ động thắp lên ngọn lửa tình yêu:

Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.

Bây giờ rõ mặt đôi ta,

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”

Lời nói của Thuý Kiều hàm chứa nhiều nét nghĩa. Thứ nhất, nhà nàng ở liền với nhà Kim Trọng trọ học, vậy mà nàng lại nói là khoảng vắng đêm trường, đó là biểu hiện của không gian và thời gian tâm lí. Khi yêu nhau, người ta cảm thấy gần nhau bao nhiêu vẫn là chưa đủ, cứ muốn gần thêm nữa. Bởi thế, việc Thuý Kiều sang nhà Kim Trọng trong đêm cũng có thể coi là nàng đã tự vượt qua sự ngăn cách của thời gian và không gian tâm lí để vươn tới làm chủ tình yêu, tự sắp xếp số phận của mình.

Thứ hai, Thuý Kiều nói: Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa là có ý nói vì tình yêu mãnh liệt mà mình phải chủ động sang nhà Kim Trọng. Chữ hoa thông thường để chỉ người con gái, nhưng ở đây, Kiều dùng chữ hoa như một hàm ý tốt đẹp chỉ tình yêu nồng nàn, tha thiết của mình dành cho Kim Trọng. Tiếp đó, Kiều nói: Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Trong lời vừa là thanh minh vừa là bày tỏ của Kiều đã ẩn chứa dự cảm chẳng lành về sự dang dở của tình yêu đôi lứa. Nàng như đang cố chạy đua với thời gian, muốn vượt qua định mệnh khắc nghiệt của đời mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào nhân vật Thuý Kiều để hiểu và thông cảm với thái độ, hành động trái với lẽ thường của nàng.

Nghe Thuý Kiều tâm sự, Kim Trọng hiểu lòng nàng nên: Vội vàng làm lễ rước vào, Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương. Rồi hai người: Tiên thề cùng thảo một chương, Tóc mây một món dao vàng chia đôi, cùng thề nguyền kết tóc se tơ, trăm năm vàng đá.

Tác giả đã đặc tả không khí khẩn trương, gấp gáp của buổi lễ thề nguyền bất ngờ, không được chuẩn bị trước. Nó diễn ra rất nhanh chóng nhưng cũng rất trang nghiêm, đầy đủ trong một không khí thiêng liêng:

Vừng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Ở đoạn trích này, tác giả dùng hai lần từ vội: Cửa ngoài vội rủ rèm the; vội vàng làm lễ rước vào; một lần từ xăm xăm; một lần từ băng. Nhịp điệu khẩn trương của buổi lễ thề nguyền đã được tác giả tô đậm bằng những từ đặc biệt ấy.

Lời thề nguyền gắn bó Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương của Thuý Kiều và Kim Trọng đã được Vừng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám. Đây cũng là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm về tình yêu của Thuý Kiều. Những chi tiết trong đoạn trích này góp phần làm cho người đọc hiểu rõ hơn nội dung của đoạn Trao duyên, vì đêm thề nguyền đã trở thành kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của mối tình đầu nên Kiều không bao giờ quên được. Tình yêu mãnh liệt, lời thề xuất phát từ hai trái tim yêu nồng nàn sẽ mãi mãi in đậm dấu ấn vào tâm tưởng của đôi trai tài gái sắc. Cũng vì thế mà trải qua bao gió dập sóng vùi của cuộc đời, họ vẫn thương nhớ nhau khôn nguôi.

Đoạn trích kể về đêm thề nguyền, đỉnh cao của tình yêu Thuý Kiều - Kim Trọng mà trong đó Thuý Kiều đóng vai trò chủ động. Sự chủ động này đã từng gây ra phản ứng phê phán, chỉ trích dữ dội của một số nhà Nho thủ cựu vốn mang nặng thành kiến Nho giáo.

Có hai lí do hiện thực và tâm linh khiến Thuý Kiều phải giành quyền chủ động. Lí do hiện thực tất nhiên là tình yêu mãnh liệt. Thuý Kiều và Kim Trọng đến với nhau bằng một tình yêu rất tự nhiên, nhất kiến chung tình. Thuý Kiều đến với Kim Trọng cũng giống như cánh buồm gặp gió, cánh buồm phải căng gió, con người phải có tình yêu, do đó nàng không có lỗi. Nhà thơ đã xây dựng thành công một tình yêu trong sáng và lãng mạn tuyệt vời. Mối tình giữa Thuý Kiều và Kim Trọng là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài gái sắc, phù hợp với quy luật tự nhiên. Bên cạnh đó là lí do tâm linh: Thuý Kiều bị ám ảnh bởi định mệnh bất công dành cho những người con gái tài sắc nên nàng đã chủ động tìm đến với tình yêu để chống lại định mệnh: Sống làm vợ khắp người ta - Hại thay thác xuống làm mà không chồng. Đến đây thì chúng ta đã hiểu vì sao Thuý Kiều nói với Kim Trọng như để thanh minh về sự chủ động của mình: Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?...

Đoạn trích Thề nguyền còn thể hiện rõ quan niệm của Nguyễn Du đối với tình yêu và hôn nhân. Nhà thơ ủng hộ tình yêu và hôn nhân hoàn toàn tự do, tự nguyện, vượt ra ngoài khuôn khổ, định kiến khắt khe của lễ giáo phong kiến đương thời. Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng phải đóng vai trò chủ động, nhưng ở đây, bất chấp sự hà khắc của luân lí, của dư luận, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Thuý Kiều. Nhà thơ thể hiện ước mơ về tình yêu tự do qua mối tình Kim - Kiều ; điều đó chứng tỏ rằng ông đã có cái nhìn tiến bộ vượt trước thời đại.

Mối tình Thuý Kiều - Kim Trọng trong sáng, đẹp đẽ như vậy mà rồi phải tan vỡ nhanh chóng trước phong ba bão táp của chế độ phong kiến bạo tàn. Nhưng xã hội bất nhân chỉ đày đoạ, vùi dập được tấm thân của Thuý Kiều chứ làm sao cướp được tình yêu tha thiết của nàng dành cho Kim Trọng?! Có điều, tấm lòng kiên trinh, chung thuỷ của nàng không thể đương đầu nổi với bao nhiêu thế lực hung hãn trong xã hội vạn ác. Thời gian dẫu có trôi qua nhưng không thể dập tắt tình yêu trong tim Thuý Kiều. Mỗi khi nghĩ đến Kim Trọng, nàng luôn có tâm trạng băn khoăn, day dứt: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Đoạn trích này góp phần giúp người đọc hiểu đúng và hiểu sâu hơn nội dung đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Thuý Kiều và nàng sẽ nhớ mãi những chi tiết của đêm thề nguyền thiêng liêng này trong suốt cuộc đời.