Câu 1. Câu chuyện được kể diễn ra trong hoàn cảnh, thời gian, địa điểm nào? Em hiểu như thế nào về tên truyện Buổi học cuối cùng?

Truyện kể về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở lớp học của thầy Ha-men, tại một trường làng trong vùng An-dát vào thời điểm sau khi cuộc chiến tranh Pháp - Phổ (Đức) kết thúc, nước Pháp thua trận phải cắt hai vùng An-dát và Lo-ren ở sát biên giới cho nước Phổ. Theo lệnh của chính quyền Phổ, các trường học không được tiếp tục dạy bằng tiếng Pháp. Chính vì vậy, tác giả đặt tên truyện là Buổi học cuối cùng.

Câu 2. Truyện được kể theo lời của nhân vật nào, thuộc ngôi thứ mấy? Truyện còn có những nhân vật nào nữa và trong số đó, ai gây cho em ấn tượng nổi bật nhất?

Truyện được kể từ ngôi thứ nhất (tôi) bằng lời của chú bé Phrăng - nhân vật chính. Cách kể như vậy tạo cho người đọc cảm giác về một câu chuyện có thực, lần lượt hiện ra qua trí nhớ của một người trực tiếp chứng kiến và tham gia vào sự kiện ấy. (Tất nhiên, tất cả chỉ là hư cấu sáng tạo nghệ thuật của tác giả).

Truyện có hai nhân vật chính là chú bé Phrăng và thầy giáo già Ha-men. Chú bé Phrăng là nhân vật gây ấn tượng nổi bật nhất.

Câu 3. Vào sáng hôm diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrăng đã thấy có gì khác lạ trên đường đến trường, quang cảnh ở trường và không khí trong lớp học? Những điều đó báo hiệu việc gì đã xảy ra?

- Trên đường đi, thấy có nhiều người đứng lố nhố trước bảng dán cáo thị của quân Phổ, Phrăng băn khoăn nghĩ: Lại có chuyện gì nữa đây? Khi bác phó rèn Oát-stơ khuyên Phrăng chẳng cần vội vã đến trường thì chú bé lại tưởng là bác chế nhạo mình vì chú hay đi học trễ.

- Quang cảnh lớp học mọi khi ồn ào như chợ vỡ mà giờ đây bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật khiến chú vô cùng ngạc nhiên.

- Mặc dù vào lớp muộn nhưng Phrăng không bị thầy Ha-men quở trách như mọi lần mà thầy dịu dàng nói: Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con.

- Tất cả những dấu hiệu khác thường ấy báo trước về một điều gì đó rất nghiêm trọng sắp sửa xảy ra.

Câu 4. Ý nghĩ, tâm trạng (đặc biệt là thái độ đối với việc học tiếng Pháp) của chú bé Phrăng diễn biến như thế nào trong buổi học cuối cùng?

Diễn biến khác thường trong buổi học cuối cùng và hình ảnh cũng khác thường của thầy Ha-men đã tác động sâu sắc đến nhận thức, tình cảm của Phrăng.

- Chú ngạc nhiên trước cảnh nhốn nháo trước trụ sở xã; trước không khí yên lặng nặng nề ở lớp học; trước bộ lễ phục trang trọng của thầy Ha-men và sự có mặt của các cụ già trong buổi học hôm nay.

- Phrăng choáng váng, sững sờ khi nghe thầy Ha-men nói rằng đây là buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp.

- Phrăng tiếc nuối và ân hận về sự lười học, ham chơi của mình bấy lâu nay.

- Sự ân hận đã trở thành nỗi xấu hổ và tự giận mình. Phrăng càng ân hận khi thầy gọi đọc bài mà chú không thuộc chút nào về quy tắc phân từ trong tiếng Pháp.

- Chú kinh ngạc nhận ra rằng hôm nay mình chăm chú nghe giảng và hiểu bài rất nhanh. Buổi học đã khơi dậy trong tâm hồn Phrăng tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ nên khi nghe thầy Ha-men giảng ngữ pháp, chú thấy thật rõ ràng và dễ hiểu.

- Chú khâm phục và tự hào về thầy giáo của mình. Thầy giáo già đã khơi dậy tình cảm thiêng liêng đối với tiếng nói dân tộc, điều đó đồng nghĩa với lòng yêu nước trong hoàn cảnh quê hương bị quân xâm lược thôn tính và có âm mưu đồng hoá.

Câu 5. Nhân vật thầy giáo Ha-men trong buổi học cuối cùng đã được miêu tả như thế nào? Để làm rõ điều đó, em hãy tìm các chi tiết miêu tả nhân vật này về các phương diện:

- Trang phục;

- Thái độ đối với học sinh;

- Những lời nói về việc học tiếng Pháp;

- Hành động cử chỉ lúc buổi học kết thúc. Nhân vật thầy Ha-men gợi ra ở em cảm nghĩ gì?

a. Hình ảnh thầy giáo Ha-men hiện lên rất cảm động trong buổi học cuối cùng. Nhân vật đã được tác giả miêu tả qua:

- Lễ phục trang trọng: thầy mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu. Đó là bộ quần áo thầy chỉ mặc trong các dịp lễ.

- Thái độ đối với học sinh: Thầy vẫn nghiêm trang nhưng ân cần, dịu dàng. Thầy chuẩn bị bài giảng rất kĩ.

- Những lời nhắc nhở về tầm quan trọng của việc học tiếng Pháp của thầy Ha-men thật sâu sắc, thấm thía. Thầy ca ngợi tiếng nói dân tộc, thầy lấy làm tiếc vì học sinh chưa chăm học. Thầy khuyên học sinh hãy yêu quý, giữ gìn và trau dồi ngôn ngữ dân tộc vì đó cũng là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước.

b. Lúc buổi học kết thúc cũng là giờ phút chấm dứt việc dạy và học bằng tiếng Pháp ở cả vùng. Ở vào thời điểm ấy, nỗi đau đớn, sự xúc động trong lòng thầy Ha-men đã lên tới cực điểm và bộc lộ ra trong cử chỉ, hành động khác thường: người tái nhợt, nghẹn ngào không nói được hết câu, dồn tất cả sức mạnh viết lên bảng câu Nước Pháp muôn năm, rồi như đã kiệt sức, đầu tựa vào tường giơ tay ra hiệu cho học sinh. Nhưng chính vào giây phút ấy, cậu học trò Phrăng đã thấy thầy giáo của mình chưa bao giờ lớn lao đến thế.

- Nhân vật thầy Ha-men đặt ra cho chúng ta một bài học sâu sắc: Phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói của dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ; bởi tiếng nói không chỉ là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc mà còn là phương tiện quan trọng để đấu tranh giành lại chủ quyền độc lập, tự do.

Câu 6. Hãy tìm một số câu văn trong truyện có sử dụng phép so sánh và chỉ ra tác dụng của những so sánh ấy.

Một số câu văn trong truyện có sử dụng phép so sánh:

- Thông thường bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố...: Đặc tả không khí náo nhiệt vào đầu các buổi học.

- ...dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi...: Miêu tả sự im lặng đặc biệt khác thường của buổi học cuối cùng.

- Thầy Ha-men đứng lặng trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường...: Thể hiện tâm trạng đau xót, lưu luyến đối với ngôi trường làng đã gắn bó với thầy suốt mấy chục năm qua.

- ...Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù: Hình ảnh so sánh này nói lên tầm quan trọng của việc giữ gìn, bảo vệ tiếng mẹ đẻ.

Câu 7. Trong truyện, thầy Ha-men có nói: ...khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù... Em hiểu như thế nào và có suy nghĩ gì về lời nói ấy?

Qua câu nói này, thầy Ha-men đã nêu bật giá trị thiêng liêng và sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền tự do, độc lập. Tiếng nói dân tộc là tài sản quý báu của một quốc gia. Ngôn ngữ là linh hồn riêng của mỗi dân tộc. Khi một dân tộc dù rơi vào vòng nô lệ nhưng vẫn giữ được tiếng nói của mình tức là họ vẫn giữ được bản sắc dân tộc, tinh thần và truyền thống lâu đời của dân tộc mình. Như vậy, họ vẫn còn một phương tiện quan trọng để đấu tranh giành độc lập tự do. Tiếng nói là vũ khí tinh thần, là sức mạnh vô biên động viên cả dân tộc đoàn kết thành một khối thống nhất cùng đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Lòng yêu nước thể hiện trong truyện này chính là lòng yêu tiếng nói của dân tộc mình.