I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Cây cầu Long Biên được xây dựng cách đây hơn một trăm năm. Vẻ đẹp và vai trò quan trọng của nó đã trở thành đề tài của thơ ca, nhạc hoạ...
- Bài báo Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử của tác giả Thuý Lan ghi lại những sự kiện lớn có liên quan đến cây cầu này, đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến, tự hào về cây cầu đã gắn liền với những chiến công vinh quang của Hà Nội nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
2. Thân bài:
* Hoàn cảnh ra đời của cầu Long Biên:
- Chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương khởi công xây cầu này năm 1898, nhằm mục đích phục vụ cho công cuộc cai trị và khai thác tài nguyên của thuộc địa Việt Nam.
- Cầu do kiến trúc sư nổi tiếng Ép-phen (tác giả của tháp Ép-phen - Pari) thiết kế. Quá trình xây dựng kéo dài 4 năm thì hoàn thành.
- Cầu bắc qua sông Hồng, nối liền con đường huyết mạch từ địa đầu Việt Nam về Hà Nội. Tên lúc đầu là cầu Đu-me (lấy tên của toàn quyền Đông Dương đương thời.)
- Hàng ngàn công nhân Việt Nam đã đổ mồ hôi, thậm chí cả xương máu để xây dựng cầu Long Biên. Cầu được coi là một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt.
* Cầu Long Biên - chứng nhân của lịch sử:
- Suốt 4 năm xây dựng, cây cầu chứng kiến cảnh ăn ở khổ cực của dân phu Việt Nam, cảnh đối xử tàn nhẫn của các ông chủ người Pháp.
- Cầu Long Biên chứng kiến cuộc rút lui bí mật của Trung đoàn thủ đô lên căn cứ Việt Bắc, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và 9 năm sau lại đón đoàn quân Vệ quốc về giải phóng Thủ đô.
- Thời kì kháng chiến chống Mĩ: cầu Long Biên là mục tiêu bắn phá hàng đầu của máy bay Mĩ. Nhiều nhịp cầu bị đánh sập nhưng cả cây cầu vẫn sừng sững hiên ngang thách thức quân thù.
- Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, mặc dù có nhiều cây cầu hiện đại bắc qua sông Hồng (cầu Thăng Long, Chương Dương...) nhưng cầu Long Biên vẫn có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Hà Nội và được coi là nhịp cầu nối những trái tim bè bạn khắp năm châu.
* Tình cảm của tác giả đối với cầu Long Biên:
- Lúc nhỏ đi học, tác giả rất thích và thuộc lòng bài thơ viết về cầu Long Biên.
- Lớn lên, những lúc dạo chơi trên cầu, tác giả thường lặng ngắm dòng sông Hồng cuồn cuộn phù sa, những ruộng lúa, bãi mía, bãi ngô xanh mướt ven bờ...
- Cây cầu bị bom Mĩ bắn phá, lòng tác giả quặn đau. Cây cầu vẫn hiên ngang trong đạn lửa, lòng tác giả trào dâng cảm xúc hãnh diện, tự hào.
- Giờ đây, tuy cầu Long Biên đã lui về vị trí khiêm nhường nhưng tình yêu tác giả dành cho cây cầu này vẫn không hề thay đổi. Với tác giả, cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của Thủ đô Hà Nội.
- Tác giả cố gắng truyền tình yêu cây cầu của mình vào trái tim du khách, đặng bắc một nhịp cầu vô hình nơi du khách để họ ngày càng xích lại gần với đất nước Việt nam.
3. Kết bài:
- Hình ảnh và lịch sử oai hùng của cầu Long Biên là niềm tự hào của người Hà Nội, của dân tộc Việt Nam.
- Từ một cây cầu nối hai bờ sông Hồng, tình yêu chân thành của tác giả đã biến nó thành cây cầu vô hình nối những trái tim nhân loại.
II. BÀI LÀM
Hơn một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, bi tráng của Hà Nội. Hiện nay, tuy đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng cầu Long Biên vẫn mãi mãi là một chứng nhân lịch sử không chỉ của riêng Hà Nội mà là của chung cả nước.
Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử là một bài bảo mang nhiều yếu tố hồi kí, ghi lại những sự kiện mắt thấy tai nghe cùng với những cảm nghĩ của tác giả. Lối viết giàu cảm xúc bắt nguồn từ sự hiểu biết phong phú cùng với những kỉ niệm về cây cầu Long Biên nổi tiếng cùng với phép nhân hoá đã tạo nên sức hấp dẫn của bài văn.
Thuý Lan, một phóng viên của báo Hà Nội mới đã viết bài bút kí này nhằm giới thiệu với nhân dân cả nước và bè bạn năm châu một danh thắng đặc biệt của Thủ đô Hà Nội - cầu Long Biên. Một chiếc cầu đã gắn liền với lịch sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
Sau khi giới thiệu tóm tắt về hoàn cảnh xuất hiện của cầu Long Biên, tác giả hồi tưởng về những kỉ niệm có liên quan đến nó. Từ thuở học trò, cầu Long Biên đã đi vào bài thơ mà thầy giáo bắt học thuộc lòng. Nhớ lúc dạo chơi trên cầu, ngắm dòng nước sông Hồng cuồn cuộn phù sa, ngắm cảnh mênh mông, bát ngát của ruộng lúa, bãi ngô dưới chân cầu. Nhớ lại hình ảnh dũng mãnh của trung đoàn Thủ đô năm xưa bí mật rời Thủ đô ra đi kháng chiến. Hình ảnh hào hùng ấy đã được nhà thơ Chính Hữu và nhạc sĩ tài hoa Lương Ngọc Trác ghi lại rất thành công trong ca khúc Ngày về.
Tác giả vừa đau xót vừa tự hào khi ngước mắt lên bầu trời trong xanh, nhớ lại cảnh máy bay giặc Mỹ ném bom tàn phá cây cầu hòng cắt đứt một mạch máu giao thông quan trọng của Thủ đô Hà Nội và cảnh quân dân ta đã đánh trả quyết liệt, kịp thời hàn gắn lại vết thương của cầu... Trong kí ức của tác giả còn hiện lên những ngày bão lụt, nước sông Hồng dâng cao cuồn cuộn sóng đỏ; chiếc cầu vẫn vững chãi tồn tại như thách thức với thiên tai.
Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã kết thúc thắng lợi. Mưa bom bão đạn đã qua, dân tộc Việt Nam bắt tay vào công cuộc xây dựng lại non sông. Cây cầu Long Biên vẫn sừng sững soi bóng trên dòng sông Hồng. Giờ đây, cầu Long Biên là nhịp cầu hữu nghị, đón bè bạn năm châu đến với Việt Nam.
Mở đầu bài văn, tác giả giới thiệu lai lịch của cầu Long Biên: Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, Hà Nội, được khởi công xây dựng vào năm 1898 và hoàn thành sau bốn năm, do kiến trúc sư nổi tiếng người Pháp Ép-phen thiết kế. Một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, bi tráng...
Trong đoạn văn này, sự vật được trình bày một cách khách quan. Tác giả chủ yếu dùng phương thức thuyết minh để nói lên những hiểu biết có căn cứ khoa học chứ không đơn thuần là những cảm nghĩ về cầu Long Biên.
Giờ đây, bắc ngang sông Hồng đã có thêm cầu Thăng Long, cầu Chương Dương hiện đại hơn. Cầu Long Biên trong thời bình đã rút về vị trí khiêm nhường, nhưng nó đã trở thành chứng nhân lịch sử. Cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của Thủ đô Hà Nội.
Đối với người Hà Nội nói riêng và đối với nhân dân Việt Nam nói chung, cầu Long Biên là chứng nhân lịch sử, chứng kiến những giai đoạn đau thương và oanh liệt của dân tộc chống ngoại xâm.
Ở đoạn tiếp theo, những đặc điểm của cây cầu Long Biên đã được tác giả trình bày trong mối tương quan với những vấn đề lịch sử - xã hội khác, như cầu khi mới khánh thành mang tên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ là Đu-me... Cầu là kết quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, cầu được coi là một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt... Cầu được hoàn thành là do công sức lao động và có khi cả mạng sống của hàng nghìn người Việt Nam trong quá trình xây dựng.
Chiếc cầu từng chứng kiến cảnh ăn ở khổ cực của dân phu Việt Nam, cảnh đối xử tàn nhẫn của các ông chủ người Pháp... Trong các chi tiết tường thuật và miêu tả đều biểu hiện tình cảm và sự đánh giá đúng đắn của tác giả về cầu Long Biên.
Mục đích chính của thực dân Pháp là xây dựng cây cầu để tiến hành triệt để việc khai thác thuộc địa. Khi dựng xong với cách nghĩ và cách cảm của người dân Việt Nam, chiếc cầu được coi là của Việt Nam vì nó được làm trên đất Việt Nam, bằng mồ hôi và máu của hàng nghìn người dân Việt Nam. Cầu Long Biên đã trở thành niềm tự hào của người dân Thủ đô:
Hà Nội có cầu Long Biên
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng.
Tàu xe đi lại thong dong
Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi...
Tình cảm của tác giả đối với cầu Long Biên bộc lộ trong bài văn thật rõ ràng, tha thiết:
Những năm tháng hoà bình trước đây, cầu Long Biên từng được đưa vào sách giáo khoa. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh chiếc cầu được vẽ trang trọng giữa trang sách với bài thơ đã được bao thế hệ học thuộc lòng. Dù chưa đến lớp nhưng nghe các anh các chị đọc, những câu thơ ấy đã nằm sâu trong trí óc tôi...
Cây cầu Long Biên đã cùng vui buồn, sống chết với nhân dân Thủ đô và nhân dân cả nước trong những tháng năm mưa bom bão đạn. Giờ đây, được thanh thản ngắm trời thu xanh biếc, tác giả vẫn bồi hồi, đau xót khi nhớ lại cảnh cầu Long Biên bao lần bị quân thù bắn phá, tưởng chừng như không thể nào đứng vững.
Và cứ mỗi lần ngẩng lên nhìn bầu trời Hà Nội trong xanh, lòng tôi lại nhớ những năm tháng chống đế quốc Mĩ oanh liệt và oai hùng. Chiếc cầu thân thương ngày ấy trở thành mục tiêu ném bom dữ dội nhất của không lực Hoa Kì. Trong đợt đánh phá miền Bắc lần thứ nhất, cầu bị đánh mười lần, hỏng bảy nhịp và bốn trụ lớn. Đợt thứ hai, cầu bị bắn phá bốn lần với 1000m bị hỏng và hai trụ lớn bị cắt đứt. Những ngày ấy từ phía Cầu Đất nhìn lên, tôi thấy chiếc cầu rách nát giữa trời. Những nhịp cầu tả tơi như ứa máu nhưng cả cây cầu vẫn sừng sững giữa mênh mông trời nước. Chúng ta hàn. Bom Mĩ lại cắt đứt. Lần cuối cùng vào năm 1972, chiếc cầu bị không quân Mỹ ném bom la-de. Tôi chạy lên cầu ngay khi tiếng bom vừa dứt. Những cảnh vệ đầu cầu đã ngăn không cho tôi lên. Nước mắt ứa ra, tôi tưởng như mình đứt từng khúc ruột.
Vào thời gian ấy, thiên tai đồng hành với địch hoạ: Rồi những ngày nước lên cao, gần mấp mé thân cầu. Đứng trên cầu, nhìn dòng sông Hồng đỏ rực nước cuồn cuộn chảy với sức mạnh không gì ngăn nổi, nhấn chìm bao màu xanh thân thương, bao làng mạc trù phú đôi bờ, tôi cảm nhận thấy chiếc cầu như chiếc võng đung đưa, nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc.
Dường như có một phép lạ nào đó, cây cầu Long Biên vẫn tồn tại lẫm liệt đường hoàng. Ngày ngày, vẫn đưa đón dòng người ngược xuôi muôn ngả.
Cầu Long Biên được nhân hoá, mang hồn người và được coi là chứng nhận lịch sử. Phép nhân hoá đó đã đem lại sự sống cho sự vật vô tri vô giác. Cầu Long Biên đã trở thành người cùng thời với bao thế hệ, ngày ngày chứng kiến và xúc động trước những thăng trầm, đổi thay to lớn của Thủ đô, của đất nước và dân tộc.
Giọng điệu trữ tình được nâng cao, mở rộng ở phần cuối của bài văn: Bây giờ cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường. Ngang sông Hồng đã có cầu Thăng Long, cầu Chương Dương sừng sững. Rồi sẽ còn có những chiếc cầu khác hiện đại hơn nữa vượt sông Hồng. Nhưng tôi vẫn thường đưa những đoàn khách du lịch nước ngoài đến thăm cầu Long Biên. Họ trầm ngâm nện từng bước chân xuống mặt cầu. Họ đứng ở nhiều góc độ, ghi lại hình ảnh chiếc cầu lịch sử. Còn tôi, cố gắng truyền tình yêu cây cầu của mình vào trái tim họ, đặng bắc một nhịp cầu vô hình nơi du khách để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam.
Lịch sử và hình ảnh quen thuộc, thân thương của cầu Long Biên không chỉ làm cho bao thế hệ người Việt Nam xúc động mà còn làm cho khách du lịch nước ngoài trầm ngâm suy nghĩ. Giữa ta và họ ít nhiều vẫn còn khoảng cách nhưng chính cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng đã góp phần rút ngắn khoảng cách ấy. Từ một chiếc cầu bằng sắt nối đôi bờ sông Hồng, tác giả đã gợi cho ta nghĩ đến một “nhịp cầu vô hình” nối những trái tim nhân loại.