I. DÀN Ý

1. Mở bài:

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại có rất nhiều bài viết về đề tài quê hương, đất nước. Nổi bật là hai bài thơ: Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.

2. Thân bài:

* Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi:

+ Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi thể hiện cảm xúc của nhà thơ về đất nước từ quá khứ tới hiện tại, tương lai ; thể hiện tình yêu tha thiết và lòng tự hào to lớn về truyền thống anh hùng của dân tộc. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về một mùa thu Hà Nội chưa xa với những hình ảnh, âm thanh tiêu biểu. Bức tranh mùa thu đẹp và đượm buồn với những hình ảnh: Sáng chớm lạnh... phố dài xao xác hơi may, thềm nắng lá rơi đầy...

+ Cảm hứng chủ đạo của bài thơ bắt nguồn từ cảm hứng mãnh liệt của tác giả trước mùa thu mới ở chiến khu Việt Bắc. Với tâm trạng tràn ngập niềm hứng khởi, nhà thơ say sưa thể hiện “cái tôi” trữ tình cách mạng: Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi, Gió thổi rừng tre phấp phới, Trời thu thay áo mới, Trong biếc nói cười thiết tha.

- Tâm trạng nhà thơ là tâm trạng của một con người tự do trong một đất nước mới giành được chủ quyền tự do, độc lập từ tay kẻ thù. Niềm tự hào sâu sắc thể hiện qua đoạn thơ với những điệp ngữ nhấn mạnh, nhịp thơ rộn rã : Trời xanh đây... Núi rừng đây... Những cánh đồng... Những ngả đường... Những dòng sông... Tất cả đều là của chúng ta. Lời khẳng định vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào.

- Từ thực tại, tác giả suy ngẫm, chiêm nghiệm về lịch sử đau thương và oanh liệt của dân tộc: Nước chúng ta, Nước những người chưa bao giờ khuất, Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất, Những buổi ngày xưa vọng nói về. Truyền thống bất khuất được hình dung qua tiếng đất - đồng nghĩa với tiếng nói của tổ tiên, ông cha nhắc nhở các thế hệ sau giữ nước.

- Từ trong máu lửa, dân tộc Việt Nam đã vùng lên làm cuộc giải phóng, bảo vệ Tổ quốc, giành chủ quyền tự do, độc lập : Súng nổ rung trời giận dữ, Người lên như nước vỡ bờ, Nước Việt Nam từ máu lửa, Rũ bùn đứng dậy sáng loà. Đoạn thơ được dệt nên từ những hình tượng hào hùng và cảm xúc đậm chất sử thi, thể hiện nhiệt tình yêu nước của nhà thơ.

* Bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:

+ Tư tưởng Đất Nước là của Nhân dân. Đất Nước gắn bó với mỗi con người; Đất Nước tồn tại suốt chiều dài lịch sử và chiều sâu của nền văn hoá, văn minh.

- Nhà thơ thể hiện cảm nhận của mình về Đất Nước qua hàng loạt hình ảnh và ngôn từ mang đậm màu sắc dân gian.

- Khái niệm Đất Nước được hình thành trong mỗi con người từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, qua lời ru, truyền thống lịch sử, qua kho tàng truyện cổ...

- Khái niệm Đất Nước được cụ thể hoá qua những gì giản dị, thân thuộc của cuộc sống hằng ngày...

+ Sự cảm nhận và thể hiện khái niệm Đất Nước của tác giả là đa chiều: thời gian, không gian, lịch sử, địa lí...

+ Đất Nước hoá thân kì diệu vào mỗi con người...

3. Kết bài:

- Hai bài thơ của hai tác giả viết ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng đều nói lên lòng yêu nước chân thành, tha thiết của nhân dân Việt Nam

- Đó cũng là lời nhắc nhở mọi người phải sống có ý thức để xứng đáng với những thành quả to lớn mà tổ tiên, ông cha phải đổ bao máu xương mới giành lại được.

II. BÀI LÀM

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại có rất nhiều bài viết về chủ đề quê hương, đất nước. Những bài thơ ấy thể hiện tình cảm mến yêu tha thiết và lòng tự hào về non sông gấm vóc không chỉ của các nhà thơ mà còn của tất cả chúng ta. Lòng yêu nước hiện lên ở mỗi bài mỗi khác, tuỳ theo cảm hứng của từng tác giả, song mỗi bài thơ là một nốt nhạc trong bản giao hưởng ca ngợi Tổ quốc và nhân dân anh hùng. Trong đó nổi bật nhất là hai bài thơ: Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước trích từ trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được viết từ năm 1948 nhưng mãi cho tới năm 1955 mới hoàn thành. Như vậy có nghĩa là cảm hứng thơ của tác giả theo suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng ấy còn được nối kết với quá khứ và mở rộng tới tương lai:

Nước Việt Nam từ máu lửa,

Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ về một mùa thu Hà Nội chưa xa bất chợt dâng trào trong tâm tưởng tác giả, giữa một buổi sáng mùa thu nơi chiến khu Việt Bắc:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Thu Hà Nội với hơi may se lạnh, với lá vàng rơi trên thềm nắng... đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người ra đi cứu nước. Đang hồi tưởng về một mùa thu cũ đượm buồn, nhà thơ bỗng chuyển hướng cảm xúc về mùa thu hiện tại: Mùa thu này khác rồi. Đó là mùa thu thứ hai nơi chiến khu Việt Bắc (1948), sau chiến dịch Thu Đông 1947, quân ta chiến thắng. Cái khác của mùa thu nay toát lên từ lời thơ hồ hởi như tiếng reo vui thốt lên từ trái tim tác giả:

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước ta bước sang một thời kì mới. Cuộc đời đổi thay, thiên nhiên khởi sắc. Niềm vui to lớn tràn ngập lòng người, đất trời, cây cỏ. Nhà thơ lắng mình thâu nhận niềm vui từ ngọn gió thu mát lành, từ sắc trời thu trong biếc, từ giọng nói tiếng cười thiết tha. Tâm trạng nhà thơ chan chứa niềm vui, rộn rã âm thanh, tưng bừng màu sắc. Đó là niềm vui được giải phóng của người dân một nước tự do, độc lập. Từ cảm xúc về mùa thu, bài thơ biểu hiện tình cảm yêu mến và lòng tự hào to lớn về đất nước Việt Nam tươi đẹp:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Điệp khúc của chúng ta cứ ngân vang giữa đất trời, sông núi. Tất cả những gì thân yêu, quen thuộc trên đất nước này đều là của chúng ta. Còn gì sung sướng, thân thương, tự hào hơn mấy tiếng ấy sau hàng trăm năm dân tộc Việt Nam đổ bao xương máu mới giành lại được chủ quyền. Có được mùa thu đẹp hôm nay, nắm chủ quyền độc lập trong tay, chúng ta không thể không nghĩ đến sức mạnh đã làm nên nó. Đó chính là truyền thống bất khuất bốn ngàn năm đau thương và oanh liệt của dòng giống Lạc Hồng:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Từ trong đau thương, máu lửa chiến tranh, đất nước vùng đứng dậy, sáng ngời ánh sáng của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng, cùng những chiến công vinh quang:

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

Những hình ảnh hùng tráng, giàu chất sử thi đạn quyện với nhau dệt nên một hình tượng thờ rực rỡ. Các dòng thơ liên kết chặt chẽ, cùng xoay quanh và làm nổi bật ý nghĩa: niềm kiêu hãnh, tự hào của con người Việt Nam về chủ quyền độc lập, tự do, về đất nước quê hương ngàn đời tươi đẹp.

Cùng một cảm hứng về quê hương đất nước như thế còn có bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Tác giả đã đi sâu khai thác truyền thống văn hoá, lịch sử của Đất Nước trong sự thân thiết, gần gũi với đời sống con người Việt Nam, nghĩa, là về những gì đã tạo ra sức mạnh tinh thần Việt Nam để làm nên chiến thắng.

Tiếp nối quan điểm tiến bộ của Nguyễn Trãi xưa, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện tư tưởng cốt lõi trong nhận thức về đất nước : Đất Nước của Nhân dân. Đất Nước gắn bó với mỗi con người; Đất Nước tồn tại theo chiều dài lịch sử và chiều sâu của nền văn hoá, văn minh dân tộc.

Nhà thơ thể hiện sự cảm nhận của mình về quá trình hình thành và tồn tại của Đất Nước qua hàng loạt hình ảnh và ngôn từ mang màu sắc dân dã. Đất Nước có từ trước khi ta được sinh ra. Khái niệm Đất Nước được hình thành trong trí óc non nớt của tuổi thơ qua lời kể ngày xửa ngày xưa... của mẹ. Đất Nước gắn liền với những truyền thuyết của thời kì đầu dựng nước và giữ nước như Trầu cau, Thánh Gióng:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể.

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Lòng yêu nước được thể hiện trước hết là ở tình cảm yêu thương gắn bó với những gì gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống thường ngày: Cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương... cho đến cái búi tóc của mẹ, đến tình nghĩa thắm thiết, thuỷ chung giữa mẹ và cha : Tóc mẹ thì bới sau đầu, Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Sau đó là sự cảm nhận Đất Nước từ phương diện địa lí, lịch sử, thời gian và không gian; từ những huyền thoại đẹp đẽ về nguồn gốc dân tộc con Rồng cháu Tiên trong lịch sử dựng nước của các vua Hùng:

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng Ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Đất Nước đã hoá thân vào Nhân dân, vào mỗi con người: Trong anh và em hôm nay, Đều có một phần Đất Nước. Vì thế sự sống của mỗi người không phải chỉ là của riêng cá nhân mà còn là của Đất Nước; bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hoá tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân. Mỗi người đều phải nâng cao trách nhiệm công dân trước sự sống còn và phát triển của Đất Nước mình. Đây chính là biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước.

Suy nghĩ về hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta bồi hồi nhớ lại âm vang hào hùng của tình yêu đất nước trong bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, bài Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi...

Hai bài thơ viết về đất nước của hai nhà thơ hiện đại tuy mỗi bài mang một vẻ đẹp riêng nhưng đều nói lên lòng yêu nước chân thành, tha thiết của mỗi con người Việt Nam; đồng thời cũng là lời nhắc nhở mọi người hãy sống có ý thức hơn để xứng đáng với những thành quả to lớn mà tổ tiên, ông cha bao đời nay phải đổ bao nhiêu mồ hôi, xương máu mới gây dựng được.