I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm sáng tác năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc, ngay sau khi tác giả nghe tin quê hương Bắc Ninh bị giặc Pháp tấn công, chiếm đóng.

- Đoạn trích nằm ở phần đầu bài thơ. Thông qua việc phản ánh những vẻ đẹp phong phú, đa dạng của quê hương - một vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hoá giờ đang bị quân giặc giày xéo, tàn phá, tác giả bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước.

2. Thân bài:

* Hình ảnh quê hương bên kia sông Đuống.

- Hiện lên qua những hình ảnh đẹp đẽ, thanh bình: dòng sông Đuống mềm mại với cát trắng phẳng lì, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc... gợi cuộc sống bình yên tự bao đời.

- Bức tranh quê hương Kinh Bắc hiện lên sinh động trong tâm tưởng nhà thơ. Nỗi nhở thấm đượm trong từng hình ảnh, từng chi tiết: hương vị lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hổ gà lợn nét tươi trong... với vẻ đẹp dân dã khoẻ khoắn, vui tươi... mang lại niềm vui, niềm tin tới mọi nhà trong năm mới.

* Hình ảnh quê hương đau thương, tan tác:

- Giờ đây, tất cả đều đã tan tác dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Đứng bên này sông (vùng tự do), nhìn sang bên kia sông (vùng tạm bị chiếm), cảm giác của nhà thơ là : Xót xa như rụng bàn tay. Nỗi đau tinh thần lên đến cực điểm biến thành nỗi đau thể xác.

- Nhà thơ miêu tả quân xâm lược bạo tàn bằng những hình ảnh so sánh chứa đựng sự miệt thị và thái độ căm giận sôi sục: Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn... chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc màu. Chúng tàn phá không chừa bất cứ nơi nào: Ruộng ta khô, nhà ta cháy, Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang, Mẹ con đàn lợn âm dương, Chia lìa đôi ngả, Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã, Bây giờ tan tác về đâu.

- Lời thơ, ý thơ, âm điệu thơ đều thấm đẫm cảm xúc đau đớn, xót xa kéo dài. Câu hỏi tu từ càng nhấn mạnh nỗi nhớ thương, khắc khoải... Cả thời gian, không gian giờ đây cũng trở nên mênh mông, mờ mịt...

3. Kết bài:

Đoạn thơ ngắn với hai khung cảnh đối lập nhau : quá khứ tươi đẹp và hiện tại đau thương có tác dụng như một lời tố cáo đanh thép tội ác không thể dùng tha của quân xâm lược. Chúng sẽ phải đền tội ngay trên mảnh đất này.

II. BÀI LÀM

Bên kia sông Đuống in trong tập thơ cùng tên của Hoàng Cầm. Một đêm tháng tư năm 1948, đang công tác văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc, tác giả nghe tin quê hương bị giặc đánh phá nên xúc động viết ra bài thơ này. Đây là một trong những bài thơ hay nhất về tình quê hương đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

Bằng cách trình bày khung cảnh thanh bình của quê hương sông Đuống, mảnh đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hoá với những nét tài hoa về hội hoạ dân gian, những hội hè mùa xuân đông vui, những sinh hoạt chợ búa, các nghề thủ công nổi tiếng... và tụ lại ở gánh hàng rong của mẹ già một đời tần tảo, hình ảnh những đứa em thơ... tất cả đều bị lũ giặc hung tàn tràn đến đột phá tan tành, tác giả bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim gắn chặt với quê hương và qua đó nói lên tình yêu đất nước thiết tha, sâu đậm.

Mở đầu bài thơ, tác giả nhắc tới nét đẹp của con sông Đuống: cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biếng biếc... gợi lên hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Nhưng giờ đây, tất cả đều tan tác dưới gót giày quân xâm lược. Đứng bên này sông, nhìn sang quê hương bên kia sông bị giặc chiếm, cảm xúc đau đớn của nhà thơ lên đến cực điểm: Xót xa như rụng bàn tay.

Hình ảnh quê hương thân yêu hiện lên rõ ràng trong nỗi nhớ thương đau đáu không nguôi của người con đang sống xa quê:

Bên kia sông Đuống

...

Bây giờ tan tác về đâu.

Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là một vùng đất mỡ màu, trù phú và có một bề dày lịch sử, văn hoá vô cùng quý báu. Nhở tới quê hương, nhà thơ như cảm thấy hương vị đậm đà, thanh khiết của lúa nếp thơm nồng sau mùa gặt mới. Hương cốm ngọt ngào trong đêm trăng sáng Trung thu, mùi xôi nếp cái hoa vàng thơm lừng ngày giỗ, ngày Tết... để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người xa quê. Đất Kinh Bắc là đất của thơ ca, nhạc hoạ và những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm. Thánh Gióng nhổ tre quật tan tác giặc Ân. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh quân Nam Hán. Lí Thường Kiệt đuổi quân Tống ở sông Cầu. Chiến dịch Xương Giang của Lê Lợi - Nguyễn Trãi giết hàng vạn giặc Minh cũng diễn ra ở đấy. Bao thần thoại, truyền thuyết, cổ tích đẹp đẽ cũng ra đời từ miền đất ấy. Đặc biệt, con người Kinh Bắc tài hoa đã sáng tạo ra một loại tranh dân gian nổi tiếng là tranh Đông Hồ với nội dung vui tươi, nét vẽ đậm đà, chân chất, màu sắc tươi tắn. Tranh nào tranh nấy như một lời chúc mừng năm mới tốt lành. Từ con người đến vạn vật đều vui với mùa xuân, nẩy nở, sinh sôi, tràn đầy sức sống:

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Tranh Đông Hồ đến với mọi nhà, đem niềm vui và niềm tin vào năm mới làm ăn sẽ may mắn, phát đạt. Tranh mang vẻ đẹp dân dã mà thanh tao, ý nghĩa ấm áp bao nhiêu! Vậy mà bỗng dưng lũ giặc kia ầm ầm kéo tới, ngùn ngụt như đám cháy, hung tàn chẳng khác chi cho ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu. Chúng tàn phá không chừa một nơi nào:

Ruộng ta khô Nhà ta cháy...

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đội ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu

Nào chỉ có tang thương, đau đớn về vật chất ?! Chúng nó đốt phá, cướp bóc, giết chóc... nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt, nhìn thấy rõ. Còn điều sâu xa hơn, có ai ngờ ? Đàn lợn âm dương, Đám cưới chuột (tên hai bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng) tượng trưng cho quan niệm về nguồn gốc sự sống của cha ông này cũng bị giặc tàn phá, huỷ diệt. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa ? Lời thơ, ý thơ là vậy và âm điệu đoạn thơ cũng là một âm điệu xót xa kéo dài: Bây giờ tan tác về đâu ? Giặc kéo tới cùng với đau thương, chết chóc, kinh hoàng. Bây giờ không biết mọi cái đã tan tác về đâu ? Cả thời gian lẫn không gian đều trở nên mờ mịt, xa xôi không biết đến nơi nào, đến bao giờ, khiến nỗi xót xa không giới hạn. Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng kêu xé lòng vút lên giữa thinh không, chẳng có lời đáp lại.

Đoạn thơ ngắn với hai mảng đối lập nhau: quá khứ tươi đẹp và hiện tại đau thương có tác dụng như một lời kết tội đanh thép quân xâm lược. Câu thơ cuối chứa chất xót xa, đau đớn và căm hận. Quân cướp nước sẽ phải trả nợ máu cho những tội ác của chúng đã gây ra trên quê hương, đất nước này.