I. DÀN Ý
1. Mở bài:
Giới thiệu sơ lược về tác giả và tác phẩm.
- Tác phẩm Người lái đò Sông Đà trích trong tập tuỳ bút Sông Đà, kết quả chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng cao Tây Bắc của tác giả năm 1958.
- Tác giả mượn lời ông lái đò già nói về Sông Đà để miêu tả con sông tiêu biểu cho núi non và con người của vùng cao Tây Bắc.
2. Thân bài:
* Nguồn gốc Sông Đà:
+ Yếu tố địa lí:
Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, chảy qua một vùng núi non hiểm trở rồi vào nước ta, đến ngã ba Trung Hà thì hoà vào sông Hồng.
+ Yếu tố lịch sử:
- Thời Trần, triều đình lấy tên Sông Đà đặt cho một lộ (đơn vị hành chính cũ): Đà Giang Lộ, gồm từ Hưng Hoá trở lên, nay là vùng cao Tây Bắc.
- Sông Đà gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử và cách mạng. (Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích tập hợp dân chúng nổi lên chống thực dân Pháp, phong trào cách mạng chống bọn làng đạo tay sai của chính quyền thực dân...).
+ Yếu tố đời sống:
- Sông Đà là nguồn sống của người dân hai bên bờ, góp phần tạo nên những phong tục tập quán của từng dân tộc vùng cao Tây Bắc.
- Tính chất của Sông Đà ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành tính cách của con người. (Ông lái đò Sông Đà là nhân vật tiêu biểu).
*Sông Đà - con sông dữ:
Lắm thác ghềnh, rất nguy hiểm cho thuyền bè qua lại (Ba trăm thác đá). Nguyễn Tuân tả: cát dữ, gió dữ, thác dữ, bãi đá dữ, xoáy nước dữ... luôn rình rập con người.
* Sông Đà trữ tình, thơ mộng:
- Nhìn từ trên cao xuống, Sông Đà như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.
- Màu nước Sông Đà mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ..., mặt nước Sông Đà loang loáng màu nắng tháng ba Đường thi... nắng giòn tan trên sông,... cả dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi...
- Bên bờ sông, đàn hươu cúi đầu ngón búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử... Ngôn ngữ của đoạn văn này giàu chất thơ.
* Hình ảnh người lái đò sông Đà :
Là người con của Sông Đà:
- Sinh ra bên bờ Sông Đà, uống nước Sông Đà từ nhỏ, lặn hụp ngày ngày trong dòng sông.
- Mười năm lái đò dọc trên Sông Đà, ông hiểu rõ tính nết của sông như thuộc lòng bàn tay mình.
- Ông có đủ tài, đủ sức để “trị” được sự hung dữ của Sông Đà.
- Gắn bó tha thiết với con sông. Sông Đà đã thành máu thịt của ông lão lái đò.
3. Kết bài:
- Nguyễn Tuân đã vận dụng hết tài năng quan sát, miêu tả, nhận xét... của mình để tô đậm những nét dữ dội của Sông Đà qua những hình ảnh, âm thanh sinh động và đặc sắc, vừa giàu chất tạo hình vừa có tính trí tuệ. Những dòng chữ của Nguyễn Tuân biến hoá khôn lường.
- Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà có giá trị nội dung và nghệ thuật xuất sắc, thể hiện tình cảm yêu mến thiết tha của tác giả đối với đất nước và con người Việt Nam yêu dấu.
II. BÀI LÀM
Nguyễn Tuân sinh năm 1910, trong một gia đình nhà Nho, quê ở làng Nhân Mục (làng Mọc), huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ông học Trung học ở Nam Định, tham gia bãi khoá chống thực dân Pháp rồi bỏ học. Nguyễn Tuân viết văn, làm báo sớm, nổi tiếng với loạt truyện ngắn đăng trên các báo Tao Đàn, Tiểu thuyết thứ bảy và được đánh giá là cây bút tiêu biểu cho văn xuôi lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 với tập truyện ngắn nổi tiếng vang bóng một thời, các tập Tuỳ bút 1 (1941), Tóc chị Hoài (1943), Tuỳ bút II (1943). Sau Cách mạng tháng Tám, cùng với phần lớn văn nghệ sĩ, Nguyễn Tuân tham gia kháng chiến, theo sát bộ đội trong các chiến dịch lên Tây Bắc, vào Quảng Trị... Nhiều tập tuỳ bút đã ra đời, khẳng định sở trường của ông: Đường vui (1949), Tuỳ bút kháng chiến (1955). Trong giai đoạn xây dựng xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ - nguỵ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nguyễn Tuân sáng tác tuỳ bút Sông Đà (1960) và Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972). Nguyễn Tuân có vốn văn hoá uyên bác, có tác phong làm việc rất nghiêm túc, viết gì cũng nghiên cứu, điều tra kĩ lưỡng. Khi viết, ông thường chú trọng lời văn sao cho thật vừa ý mình, thật mới, thật hay, có dấu ấn riêng rõ rệt, không thể lẫn với bất kì ai.
Người lái đò Sông Đà trích trong tập tuỳ bút Sông Đà, kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân ở Tây Bắc năm 1958. Ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc từ Lai Châu về Sơn La. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới sau 1954 và phong cảnh, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách của ông với một niềm vui to lớn bao trùm tất cả, xen lẫn những xúc cảm trữ tình trước vẻ đẹp lạ lùng và hấp dẫn của đất nước, con người Tây Bắc. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà lấy ông lái đò làm nhân vật trung tâm của câu chuyện về Sông Đà, nhưng thực chất là để biểu lộ cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Mượn lời ông lái đò nói về Sông Đà nhưng chính là tác giả miêu tả con sông từ nhiều góc độ khác nhau, qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm mình đối với con sông tiêu biểu cho núi non, con người xứ Tây Bắc xa xôi. Với lối viết đặc sắc, độc đáo, Sông Đà đã trở thành Sông Đà - Nguyễn Tuân. Đó là con sông của đất nước có lịch sử chống ngoại xâm, lịch sử cách mạng ; là con sông trữ tình, anh hùng ca, tạo nên những con người anh hùng, bình thường mà vĩ đại. Tất cả đều được vẽ nên bằng ngòi bút biến hoá tài tình thể hiện sự gắn bó thiết tha, sâu đậm với đất nước của tác giả.
Xưa nay, đã có nhiều tác phẩm viết về Sông Đà. Dân gian có truyện cổ tích về Thác Bờ, có thành ngữ về ma thiêng nước độc: Nước Sông Đà, ma Tà Bú. Vua Lê Thái Tổ đi đánh giặc Đèo Cát Hãn từ Lai Châu về qua Sông Đà có câu thơ : Đồn đại những ba trăm thác dữ. Mà nay chỉ thấy một dòng xuôi, ý lấy Sông Đà để nói chuyện dẹp giặc thành công. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Quang Bích và các nhà văn trong cuộc kháng chiến chống Pháp đều đã nói đến Sông Đà. Văn chương thế giới cũng có nhiều tác phẩm bất hủ tả vẻ đẹp của các dòng sông. Văn chương Trung Quốc đã sớm in vào trí nhớ nhiều thế hệ người Việt hình ảnh sông Lang Thương dòng trong dòng đục gắn với Khuất Nguyên. Dòng sông Hoàng Hà như từ trời cao rơi xuống trong thơ Lí Bạch. Bến sông Trường Giang và cảnh dương liễu rủ bóng làm cho khách qua sông sầu đến chết lòng. Bến Tầm Dương với lau lách đìu hiu và cái khí lạnh của sông Dịch trước sự hi sinh hào hùng của tráng sĩ Kinh Kha. Trong văn chương Pháp còn ngân vang giọng thác Niagara kéo dài qua thảo nguyên mênh mông trong đêm trăng thanh vắng với lời văn đầy chất thơ của Satobriăng. Sông Hằng hùng vĩ, linh thiêng được miêu tả trong tác phẩm Mahabharata lại hiện ra hiền hoà, kì diệu ở thơ Ta-go. Sông Vôn-ga, sông Đìnhiép êm đềm, mơ mộng trong văn Mác-xim Go-rơ-ki, Sô-lô-khốp... Mỗi dòng sông có một vẻ đẹp riêng nhưng không con sông nào đặc biệt như Sông Đà của Nguyễn Tuân.
Sông Đà có nguồn gốc rõ ràng: Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc lấy tên là Li Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi đến nửa thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hoà vào sông Hồng. Tác giả nói về dòng sông mà như nói về con người: nào khai sinh, nào xin nhập quốc tịch, nào trưởng thành... Ngôn ngữ học cho rằng đó là nhân hoá, kì thực nó là nghệ thuật hoá, coi dòng sông có đời sống, có tính cách, có cá tính vô cùng độc đáo. Ngoài các yếu tố địa lí, Sông Đà còn có các yếu tố lịch sử. Thời xưa, triều đình nhà Trần lấy Sông Đà đặt tên cho một lộ là Đà Giang Lộ. Chính vì vậy trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ có truyện Đà Giang da ẩm mà bối cảnh là cuối đời Trần. Đà Giang Lộ là vùng đất tính từ Hưng Hoá trở lên, bây giờ gọi là vùng Tây Bắc. Từ Lai Châu xuôi về Hoà Bình, nối nhau bằng sợi dây thừng (chữ của Nguyễn Tuân) khổng lồ là Sông Đà, nếu nhìn từ trên máy bay xuống. Sông Đà còn có yếu tố cách mạng. Con sông trước tiên là một nguồn sống. Miếng nước, con cá, đường thuỷ, lưu vực phù sa, cơn gió mát mùa hè,nơi tụ họp đầu tiên để lập nghiệp thành tộc này tộc nọ là ở ven các bờ sông. Nhiều nền văn minh bắt nguồn từ những dòng sông. Con sông là trời sinh, những con sông cũng do con người tạo nên bằng công sức mình. Lịch sử dù biến thiên, Sông Đà vẫn là của dân xử Tây Bắc. Nó dữ, nó hiền là một chuyện và con người vẫn ăn ở đời đời kiếp kiếp với nó. Không nói chuyện ngày xưa, chỉ nhắc lại hồi Tây mới sang cướp nước ta, người dân xứ này đã cùng nhà yêu nước Cần vương Nguyễn Quang Bích (tuần phủ Hưng Hoá) chiến đấu đến cùng. Trong nhật kí hành quân bằng thơ của ông đã ghi lại bao nhiêu tên đất, tên nước thuộc vùng Sông Đà. Tiếp theo đó là thời thực dân Pháp cai trị cùng với bọn làng đạo, địa chỉ gian tham, độc ác: Con sông bị chúa đất từng vùng đem cắt ngang ra thành từng khúc nhỏ làm cho con sông ác thêm ! Đế quốc đóng đồn bót ven sông, tính dữ ác của con sông lại càng tăng thêm mấy lân. Tuy vậy, người dân Tây Bắc không chịu rời sông Đà. Dù chưa nghe nói đến cách mạng mà năm trăm thanh niên chèo đoàn thuyền hàng trăm chiếc xuôi về Hà Nội chở thóc lên Hoà Bình cho Tây đã không chịu được cảnh mưa trên nguồn giội xuống đầu, gió sông táp vào mặt cùng những lời chửi mắng, roi vọt của bạn quan lính áp tải, nên vào một buổi chiều Sông Đà nổi sóng, cá Sông Đà quẫy mạnh, họ nhất loạt rút cọc chèo, bơi chèo tiêu diệt gọn cái trung đội áp giải ấy. Người lái đò Quỳnh Nhai kể như vậy, rồi tiếp : Bây giờ thỉnh thoảng đi chở hàng mậu dịch cho chính phủ, vẫn gặp lại một số anh em cũ của cái đêm mưa bão đi trốn khỏi bến Tà Bú ấy... Mười lăm năm đã qua đi trên Sông Đà, con Sông Đà quê hương ngày nay đã khác trước rồi... Đoàn chuyên gia ta và chuyên gia bạn đi nghiên cứu Sông Đà, để rồi trị con sông dữ tợn này, bắt nó phải phục vụ cuộc sống Tây Bắc. Từ đó tới nay đã trên hai mươi năm. Công trình thuỷ điện Hoà Bình đã xong. Con Sông Đà đã được chặn lại để làm ra điện. Hồ chứa nước dài hàng trăm kilômét là khu du lịch, nơi nuôi cá, là đường giao thông thuận lợi, không còn cảnh lên thác xuống ghềnh nguy hiểm mặc dù vẫn rất hào hùng như thuở trước.
Năm 1958, nhìn thấy đoàn chuyên gia nước bạn sang khảo sát Sông Đà, Nguyễn Tuân đã nổi hứng muốn làm một cán bộ thông tin để ghé khắp các bến lớn bến nhỏ ở bờ bên phải, ở bờ bên trái Sông Đà và chuyển đi cái tin mới ngồn ngộn sức sống này. Niềm vui ấy không riêng cho một ai mà cho tất cả nhân dân Tây Bắc, nhân dân cả nước. Nó hết sức lớn lao vì nó mang rất nhiều ý nghĩa. - Người lái đò Sông Đà tuyên bố: Chợ Bờ, cái biên giới thuỷ phận cuối cùng của đá thác Sông Đà... Từ chợ BỜ xuôi dòng, hết ghềnh hết thác. Sông Đà hình như hết cả đậm đà với nhà đò. Như vậy, Sông Đà đúng với cái danh của nó là từ chợ Bờ trở lên. Phải đúng ba trăm cái thác đá mới là sông Đà. Để làm chứng cho lời nói của mình và thêm chút mắm muối cho câu chuyện đậm đà chất sống, người lái đò già bình thêm: Chạy thuyền trên khúc sông không Có thác, nó đến dại tay dài chân và buồn ngủ. Sông Đà đối với ông giống như một trường thiên anh hùng ca. Tạo được môi trường anh hùng ca phải là cái gì dữ dội, nguy hiểm cao độ, khắc phục được phải là thiên tài, tối thiểu là tài ba hiếm có. Phải kiên trì, có khi liều xông vào chỗ chết để giành lấy sự sống và tất nhiên cuối cùng phải chiến thắng vẻ vang.
Sông Đà quả là một môi trường như thế. Bản chất nó đã vậy, ngòi bút tài ba của nhà văn càng làm cho bản chất ấy sắc nhọn thêm, dữ dội, nguy hiểm thêm bội phần. Cây cối, cỏ hoa hai bên bờ, ánh sáng nhà cửa, làng bản ven sông là nằm trong cảnh quan của sông, những cái đó thường hiền hoà, tươi đẹp... Nhưng trước hết, chúng ta hãy nói đến những nét đặc trưng nhất của Sông Đà. Cát là thứ bình thường nhất. Cát trên sông có hại chăng là khi nó nổi lên thành bãi, thành gò làm cho thuyền bị mắc cạn. Có mấy ai nghĩ rằng thứ hạt nham nhám ấy của Sông Đà lại làm loét cả da, còn lội nước thì đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà đục thủng đáy và mạn dưới các thuyền gỗ. Như thế là cát dữ. Bờ cũng chẳng hiền. Có nơi nó dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy đúng ngọ mới có mặt trời. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu... Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện...
Lời văn ở đoạn này gồm những chi tiết chính xác, khoa học xen lẫn cảm quan của tác giả, tạo nên cảnh Sông Đà khi thì dữ dội, nguy hiểm trong cái hùng vĩ không ngờ, khi thì pha chút hóm hỉnh trong những nét rất hiện thực như con nai con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia, tưởng như lòng sông chỉ còn là cái dải yếm trong ca dao xưa. Gió Sông Đà cũng đáng sợ. Ở quãng ghềnh Hát Loóng là vương quốc của gió phối hợp với nước, với đả, với sóng thành những chỗ xoáy: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt, (nợ xuýt là nợ không có cũng đòi), mà không đòi được thì cố bắt người lái đò và lật ngửa bụng thuyền ra. Cát, vách đá, gió đều đáng sợ cả, nhưng không gì đáng sợ bằng cái hút nước. Chắc tên gọi này không phải do tác giả đặt ra mà là của đồng bào sở tại, hoặc của những người lái đò trên Sông Đà. Nó là chỗ nước xoáy, dòng nước đương chảy xuôi êm ả, bỗng dưng tới đó cứ xoáy tròn thành vòng rất đẹp rồi trũng xuống như cái lúm đồng tiền trên đôi má xinh xinh. Ai ngờ đó là chỗ nguy hiểm nhất cho thuyền đi trên sông. Ban trưa thanh vắng ra sông, chỗ bờ hõm thành vực, thấy những vòng xoáy ấy, trẻ con người lớn đều sợ hãi bởi đã từng nghe lời đồn đại mê tín rợn tóc gáy là chỗ đó Hà Bá và các vị thuỷ thần thường bắt người xuống hầu hạ hoặc lấy gỗ xây cung điện dưới Thuỷ cung. Bất cứ vật gì lọt vào đó là chìm mất tăm. Cái hút nước ở Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả hiện đại hơn: nó như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước Ở đó ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Tiếng nước ặc ặc ấy có lẽ chỉ Sông Đà mới có. Còn nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Vừa đáng sợ vừa buồn cười là chi tiết thuyền mà lạc vào đó thì thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sống dưới.
Cái đáng sợ nhất của Sông Đà chưa phải là những cái hút nước mà là đá và thác. Thác và đã bày thành Thạch Trận, hay nói đúng hơn là Thạch Thuỷ Trận. Nguyễn Tuân có dụng ý trình bày một thứ trận chiến như kiểu Bát t đồ theo binh pháp Tôn Ngộ mà Khổng Minh sáng tạo lại, cố nhiên có pha chút hiện đại. Không có Long Xà Trận nhưng có Thạch Trận. Thạch Trận cũng đủ cửa tử, cửa sinh. Tuy không đủ Bát Trận nhưng cũng có trận trước trận sau, trận trên, trận dưới, nhiều lớp nhiều tuyến, có tiên phong, có dự bị... Không có các tướng trấn cửa như Nguỵ Diên, Mã Siêu, Quang Hưng, Trương Bào... nhưng có những tưởng đá và quân nước. Đá thì ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông... có chiếc thuyền nào xuất hiện... là một số hòn bên nhổm cả dậy để vồ lấy... Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó... Tưởng chừng như chúng nằm ngồi rải rác tuỳ tiện, nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, sông bày Thạch Trận. Đá được “phân công” hẳn hoi, chia làm ba hàng chặn ngang trên sông. Hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vụ hồi lại. Nếu thuyền không chịu chìm mà cứ tiến lên thì một thế trận khác lại đã bày sẵn. Tượng đá ở đây oai phong lẫm liệt. Một tướng đá như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một tướng đá khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Nhưng các tuyến của Thạch Trận đều lần lượt bị chọc thủng. Các cửa tử đều chẳng như được thuyền. Cuối cùng, cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh là thất vọng. Tưởng đâu như sắp bị khép vào trong tội trong binh pháp: quân thua chém tướng. Đây là một chi tiết cực kì thú vị.
Hết đá đến nước. Nước vốn êm dịu nhưng khi kết hợp với đá, với gió thì nó trở nên hung dữ. Nước Sông Đà là như vậy. Tính từ Chợ Bờ trở ngược, chỉ lắng nghe tiếng kêu đủ kiểu của nước cũng đã thấy ghê : Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên... Lúc nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng . gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa. Tới giữa thác thì một đằng đá chặn, một đằng sóng luồng thuyền mà đánh vu hồi, đồng thời reo hò làm thanh viện. Có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm, một ấm nước sôi khổng lồ. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút: nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Tiếng nước đã sợ, sức nước còn đáng sợ hơn. Mặt sông cũng có ổ gà: Đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống, bị dồi lên. Chỗ thác, mặt sông chia thành nhiều luồng: Có luồng đi lầm vào thì chết ngay, có luồng đi vào đúng luồng rồi nhưng mà không trúng tim luồng thì vẫn có thể là thập tử nhất sinh như thường. Ở những chỗ khác, nước có thể đội cả thuyền lên, bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa ông lại cho phơi bụng giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Dưới ngòi bút tài hoa, phóng khoáng của Nguyễn Tuân, nước Sông Đà đã trở thành võ sĩ thực thụ. Nó đánh đến miếng đòn độc hiểm nhất: bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò... Bây giờ thì nó là con ngựa bất kham đang tế mạnh trên sông đá. Ông lái nắm chặt lấy được cái bờm sóng... ghì cương lái... phóng nhanh vào cửa sinh. Nước đành chịu thua nhưng đến chỗ cải hút, nó rình sẵn, thuyền nào lơ mơ là nó rút luôn tận đáy, chết không kịp ngáp. Chẳng khác gì dân gian đồn Hà Bá lên lấy gỗ. Sông Đà dữ quả không sai với tiếng đồng Cát dữ, bờ dữ, gió dữ, hút nước dữ, tập trung cái dữ là những Thạch Trận, đá và nước hùa nhau bẫy người lái đò vào chỗ chết. Tác giả đã dùng ngòi bút trăm màu và cặp mắt thiên lý nhãn của mình để đưa ra hàng loạt những hình ảnh khác nhau nhưng luôn luôn đắc địa, vừa có tính trí tuệ vừa có chất tạo hình, vượt xa thủ pháp mà ta quen gọi là nhân hoá để đi vào bản chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, trở thành những trang viết biến hoá khôn lường. Đá dưới sông mà được tác giả miêu tả như là dân quân phục kích, là bộ đội giăng hàng bày trận, là tướng giữ cửa tử của sinh trong trận đồ Khổng Minh, là tướng trên sân khấu tuồng, là tướng thua trận trên chiến trường... Nước mà khi thì là tiếng kêu tâm trạng, khi thì là tiếng reo hò của quần chúng, khi thì là đô vật, khi là lực sĩ đội thuyền, khi thì là Hà Bá hút người xuống đáy... Do đó mà cái dữ của Sông Đà lại càng dữ, càng trở nên môi trường anh hùng ca hoàn toàn độc đáo.
Cảnh Sông Đà vừa dữ dội vừa hùng vĩ. Cái hút nước rất nguy hiểm và đáng sợ, vậy mà nhà văn tưởng tượng là cứ chui xuống đáy nước rồi lia máy quay phim ngược lên cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh và một áng thuỷ tinh khối đúc dày... thì nó lại trở thành cảnh đẹp và lạ có một không hai. Từ trên máy bay nhìn xuống, Sông Đà giống như cái dây thừng ngoằn ngoèo chứ không ai nghĩ rằng nó đã bao đời làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc. Có lúc lại thấy Sông Đà như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Màu nước Sông Đà rất đẹp: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa...
Nguyễn Tuân viết về Sông Đà bằng ngòi bút dạt dào cảm xúc. Tác giả nhận xét: Con Sông Đà gợi cảm. Có lần ông thấy nó giống như một cố nhân lâu ngày mới gặp lại. Sông Đà xuất hiện đột ngột sau một chỗ ngoặt khỏi núi thành một vệt loang loáng màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” (thơ Lí Bạch trong bài Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng). Ôi, cái nắng giòn tan trên sông lấp loáng vừa khói vừa nước mới đẹp đẽ, ấm áp làm sao! Bạn thơ của Lí Bạch ra đi vào giữa mùa hoa khói ấy có thấy rộn lên trong lòng chất men xuân hay không thì chưa rõ ; nhưng ở đoạn văn này thì Nguyễn Tuân như đang đắm mình vào đám hội xuân của chuồn chuồn, bươm bướm, của nắng giòn tan trên sông, của cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi, của đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm, của một nương ngộ nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, của Sông Đà thơ mộng trước con mắt của thi sĩ Tản Đà : Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh, Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình... Sông nước, bến bờ tịnh không một bóng người: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bỗng dưng, tác giả thèm nghe một tiếng còi síplệ (tiếng Pháp : siflet là còi) của một chuyến xe lửa Yên Bái - Lai Châu để cho nỗi niềm cổ tích tuổi xưa trở màu thành hiện đại, cho cảm nghĩ đủ hai chiều kim cổ. Cuối đoạn văn trữ tình này lại là một khoảng không gian khoáng đạt của dòng nước hiền hoà đang nhớ các bạn thác ghềnh; của giọng người miền xuôi thoảng nhẹ, êm êm ; của những cánh buồm mở rộng tha hồ đón gió bốn phương trên những con thuyền mình nở chứ không phải là thuyền then đuôi én, khiến cho cảm xúc của cả người viết lẫn người đọc cứ tràn ra mênh mang, bất tận. Sông Đà dữ dội nhưng Sông Đà cũng rất trữ tình.
Trở lại với nhân vật chính là người lái đò Sông Đà. Ông sinh ra và lớn lên bên bờ Sông Đà, uống nước Sông Đà từ thuở còn để chỏm, chắc chắn ông cũng đã từng hằng trăm lần ngụp lặn trong dòng sông. Sau mười năm lên ngược xuống xuôi, cầm lái bao phen đi về từ Lai Châu xuống tận Hà Nội, thử hỏi có bến nào, thác nào, luồng nào mà ông không thuộc ?! Mà con Sông Đà này sức cải hoá của nó là ghê gớm, quyết liệt có một không hai. Cái phép của sông là sắt đá số một, cho nên ở ông lái đò này có cái gì mà không in đậm dấu ấn của con sông, không là sản phẩm của Sông Đà ?! Từ hình dáng bên ngoài: Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuynh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sống, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Cuộc sống sông nước đã rèn luyện cho ông một thân hình cao to và gọn quảnh như chất sừng chất mun. Cái nghề lái đò đã khiến tất thảy những người lái đò Sông Đà chỉ khoẻ có đôi tay còn chân rất yếu, chạy rất kém. Cử chỉ của ông lái đò này cũng đều theo dáng lái thuyền, khi ngắt lời người khác, ông nhanh như một tay lái rẽ ngang sông viết theo luồng thác bắt chéo.
Cái dữ dội của Sông Đà có các ông lái đò trị được. Chiến thắng ấy là một nét đẹp: con người chiến thắng thiên nhiên. Ngay trong khi miêu tả cái dữ dội, tác giả vẫn thỉnh thoảng pha một chút vui vui, nghịch nghịch để làm cho cái cứng rắn, hiểm trở của thiên nhiên mềm đi ít nhiều. Làm nghề lái đò, ông lải hiểu rõ cấu tạo của thuyền, đò. Tại sao con thuyền Tây Bắc mình thon chứ không nở ? Phải là thuyền then đuôi én thì mới lách qua được các cửa luồng đá ép lại còn rất hẹp. Cả chuyện cái buồm cũng vậy. Lải đò Sông Đà ở thượng nguồn thì cần sào chống, chèo bơi, cần nữa thì thêm dây kéo, ít khi dùng buồm. Về dưới xuôi, nếu cần buồm thì can hai cây sào lại thành cột buồm và căng cái mui ra làm buồm mà treo lên. Có điều chân trời Tây Bắc và Sông Đà thường là vướng núi, cái buồm di động trên lườn núi vốn không phải là hình ảnh quen mắt của người dân hai bờ sông Tây Bắc. Ông lái đò thuộc Sông Đà như thuộc lòng bàn tay. Sông Đà đối với ông chỉ có ý vị đậm đà từ Chợ Bà trở ngược. Về xuôi, hết thác, hết đá, lái thuyền dễ dại tay dại chân và buồn ngủ. Sông Đà chỗ nào vách đá dựng đứng như thành cao vút, khép sống lại chỉ còn như cải eo; chỗ nào gió, sóng, đá kết hợp với nhau thành khúc nhạc rợn người; chỗ nào có những hút nước là cạm bẫy kinh khủng cho thuyền bè. Đặc biệt là luồng lạch, thác đá, bao nhiêu thác, ở đâu thác liên tiếp giăng hàng, bày trận, luồng nào sinh luồng nào tử, tim luồng ở đâu, lên thác ra sao, xuống thác thế nào... ông lái đò biết hết. Không phải tự nhiên mà ông hiểu biết và thành thạo như vậy. Phải rèn luyện, rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng. Cái nghề lái đò này thật vất vả, người cứ dựng đứng lên mà luôn tay luôn chân luôn mắt luôn gân và luôn tim nữa. Lên ngược phải kéo thuyền thì ngực vú, bả vai người lái độ chống sào hay bầm lên một khoanh củ nâu, nó là vết nghề nghiệp của đầu con sào gửi lại đời đời cho người lái đò Sông Đà, như một thứ huân chương lao động Sông Đà ban tặng cho họ. Lên thác vất vả nhưng còn tránh được nguy hiểm chứ chẳng như xuống thác: Xuống thác, người lái đò Sông Đà linh hoạt và luôn luôn cơ động mà phối hợp đội mắt, đôi tay, đôi chân, thần chết chỉ đến với những tay lái kém cái tính phối hợp và tính ứng phó linh hoạt đó.
Đời người lái đò Sông Đà là một cuộc đời chiến đấu thực thụ. Cứ nghe ông lái đò thuật một chuyến xuống thác thì đủ biết. Lúc đó, Sông Đà là kẻ thù số một. Nhìn nó, có lúc thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh... để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Người lái đò khi nào thì đè lên đầu luồng mà tiến, khi nào thì tóm lấy bờm sóng mà vượt, vững tay lái ra sao khi chung quanh tiếng sóng nước reo hò vang lừng để thanh viện... Hỗn chiến với đá với nước đến cật lực, hết hơi, tưởng như rã rời vậy mà qua xong thác, khi sống thác xèo xèo tan trong trí nhở... Cũng chả ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Hết thác, sông nước lại thanh bình thì lòng ông lái đò cũng bình yên. Chiến đấu gay go vô kể nhưng vẫn là chuyện thường ngày, không có gì là hồi hộp đáng nhớ. Sông Đà đối với ông lái đò, quả là một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng. Bản thân ông cũng sống một đời sống hào hùng, có điều sự hào hùng ấy là chuyện hằng ngày nên ông coi chẳng có gì đặc biệt. Ông đã ép con người ông vào trong khuôn khổ của Sông Đà và Sông Đà đã rèn ông theo mẫu của mình. Không có cái gì thuộc về Sông Đà mà ông lái đò không biết. Ngược lại, không có cái gì ở ông lái đò mà không mang dấu ấn, hình ảnh của Sông Đà.
Đọc văn Nguyễn Tuân nhất là tuỳ bút, có người cho rằng như soi trong kính thiên sắc, chỉ mấy màu mà lắc bên này thì một thế giới màu, lắc bên kia lại là một thế giới màu khác. Ngòi bút Nguyễn Tuân không chỉ bảy màu mà trăm màu. Nếu người đọc chịu khó chú ý đến từng câu từng chữ thì sẽ nhận thấy giá trị công sức mà tác giả đã bỏ ra e thường là “đến bạc tóc” như người xưa từng nói. Từ ngữ của Nguyễn Tuân phong phú, tìm tòi, sáng tạo, câu cú đôi khi rắc rối nhưng vẫn rất Việt Nam. Hình ảnh ví von luôn bất ngờ, độc đáo. Các chi tiết của tuỳ bút Người lái đò Sông Đà đã hay, chỉnh thể của bài văn càng cho thấy sự hiểu biết khoa học đến cặn kẽ, cảm xúc riêng giàu chất sống và bao trùm lên tất cả là một tấm lòng yêu thương con người, đất nước, yêu cái gian khổ đã vượt qua như một bản hùng ca, nên càng quý khao khát, ước mong một tương lai tươi sáng, hạnh phúc.