I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Đề tài ca ngợi cảnh đẹp quê hương, đất nước chiếm số lượng khá lớn trong ca dao.

- Mỗi bài là một bức tranh phong cảnh tuyệt vời, thể hiện tình yêu tha thiết của con người đối với non sông gấm vóc.

- Bài ca dao tả cảnh đẹp Hồ Tây được đánh giá là bài tiêu biểu nhất.

2. Thân bài:

* Cảnh đẹp Hồ Tây buổi ban mai:

+ Vị trí hồ nằm ở phía Tây thành Thăng Long. Hồ rộng và đẹp, gắn liền với những địa danh nổi tiếng của Hà Nội như chùa Trấn Vũ, làng Yên Thái (Bưởi), Nghi Tàm, Thọ Xương...

+ Vẻ đẹp của Hồ Tây được miêu tả như một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ:

- Câu 1. Hình ảnh: Gió đưa cành trúc la đà là nét chấm phá đơn sơ nhưng sinh động. Cái động của cành trúc làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của mặt hồ.

- Câu 2. Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương: các âm thanh hoà quyện vào nhau (tiếng chuông chùa, tiếng gà gáy sáng) gợi liên tưởng về một cuộc sống bình yên.

- Câu 3. Mịt mù khói toả ngàn sương đặc tả vẻ huyền ảo, thơ mộng của Hồ Tây. Sương phủ dày đặc trên mặt nước như khói toả khiến cảnh hồ giống như trong cõi mộng hoặc cõi thần tiên, đem đến cho con người cảm giác lâng lâng thoát tục.

- Câu 4. Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ là hình ảnh cuộc sống lao động hiện ra thấp thoáng qua tiếng chày giã dó làm giấy của dân làng Yên Thái. Tiếng chày nhịp nhàng, cần mẫn là một trong những âm thanh quen thuộc gắn liền với khung cảnh Hồ Tây mỗi sớm mai.

- Mặt trời lên, mặt Hồ Tây như một tấm gương khổng lồ sáng long lanh, đẹp vô cùng!

3. Kết bài:

- Chỉ qua bốn câu ca dao, người xưa đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên Hồ Tây tuyệt đẹp, làm rung động lòng người.

- Ẩn chứa sau từng câu, từng chữ là niềm tự hào của người dân Thăng Long ngàn năm văn vật.

II. BÀI LÀM

Trong ca dao - dân ca, đề tài về cảnh đẹp đất nước chiếm một mảng khá lớn. Mỗi bài là một bức tranh phong cảnh tuyệt vời, ẩn chứa lòng tự hào, tình cảm gắn bó thiết tha, sâu nặng với quê hương, xứ sở. Bài ca dao nói về cảnh đẹp Hồ Tây ở thủ đô Hà Nội được lưu truyền rộng rãi và đã trở thành lời ru quen thuộc:

Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.

Mịt mù khói toả ngàn sương,

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Hồ Tây xưa kia có tên là hồ Lãng Bạc (tức cái bến có sóng lớn), hay còn gọi là Dâm Đàm (hồ sương mù) vì thường vào lúc sáng sớm và chiều tối, sương phủ dày trên mặt nước. Vì ở vị trí phía Tây kinh thành nên sau này nó được gọi là Hồ Tây. Xung quanh hồ là những địa danh nổi tiếng của đất Thăng Long như chùa Trấn Vũ, huyện lỵ Thọ Xương, làng Yên Thái (vùng Bưởi) chuyên nghề làm giấy (vỏ cây dó được ngâm mềm, giã nhuyễn rồi cán mỏng thành giấy), phường Nghi Tàm, quê hương của Bà Huyện Thanh Quan, thi sĩ nổi tiếng của nước ta.

Bài ca dao là bức tranh toàn cảnh Hồ Tây vào một buổi sáng tinh mơ. Mở đầu là nét chấm phá đơn sơ những sinh động: Gió đưa cành trúc là đà. Làn gió nhẹ sớm mai làm đung đưa cành trúc trĩu nặng sương đêm, tạo nên cái dáng mềm mại, nên thơ. Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ.

Trong câu tiếp theo, các âm thanh hoà quyện vào nhau: Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên. Tiếng gà gáy gợi lên cuộc sống quen thuộc nơi thôn dã. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời hoà quyện, làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của đất trời lúc đêm tàn, ngày rạng.

Ai đã một lần đến Hồ Tây khi màn sương dày đặc còn bao phủ mặt hồ sẽ thấy được cái hay, cái đẹp của câu: Mịt mù khói toả ngàn sương, để rồi thực sự sống trong tâm trạng lâng lâng thoát tục trước vẻ đẹp thần tiên ấy.

Nếu ở ba câu thơ trên mới thấp thoáng hơi hướng cuộc sống thì đến câu thứ tư, hình ảnh cuộc sống lao động bỗng hiện ra rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của dân làng Yên Thái. Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống cần lao.

Hình ảnh mặt gương Tây Hồ làm bừng sáng cả bài ca dao. Mặt trời lên xua tan sương mù, toả ánh nắng xuống mặt nước, Hồ Tây trở thành một mặt gương khổng lồ sáng long lanh, vô cùng đẹp đẽ!

Như vậy là chỉ vẻn vẹn trong bốn câu thơ lục bát mà cảnh đẹp Hồ Tây đã được ngòi bút tài hoa của người xưa vẽ thành bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. Ẩn chứa sau từng câu, từng chữ là lòng tự hào, yêu mến tha thiết với quê hương của người dân đất Thăng Long ngàn năm văn vật.

Trên khắp đất nước Việt Nam ta, ở đâu cũng có những cảnh đẹp làm sao xuyến hồn người. Xứ Lạng với Đồng Đăng có phố Kì Lừa, Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh, Hà Nội với ba sáu phố phường, Hồ Tây, Hồ Gươm, gò Đống Đa, chùa Một Cột... Miền Trung với Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh hoa đồ. Xứ Huế với vẻ đẹp uy nghiêm, trầm mặc của cung điện, đền đài, lăng tẩm, của sông Hương với núi Ngự Bình. Những đêm trăng sáng, tiếng hò ngân dài trên sông nước Hương Giang: Đò từ Đông Ba đò qua đập đá, Đò về Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sềnh, Lờ đờ bóng ngả trăng chênh, Tiếng hò xa vọng nặng tình nước non. Người dân Nam Bộ tự hào với mảnh đất trù phú, mỡ màu bốn mùa hoa thơm trái ngọt, lúa chín vàng đồng: Cần Thơ gạo trắng nước trong, Ai đi đến đó chẳng mong ngày về...

Tất cả những câu ca ấy dù mộc mạc hồn nhiên hay trau chuốt, trữ tình đều nói lên cảnh đẹp gấm hoa của non sông đất nước và thể hiện tình yêu quê hương đậm đà, sâu nặng của nhân dân ta. Giống như bao bài ca dao khác, bài Cảnh đẹp Hồ Tây sẽ sống mãi trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt.