Câu 1. Đọc kĩ tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính.

Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo dân gian. Nội dung chia làm ba phần:

+ Phần 1: Án giết chồng: Thiện Sĩ là con trai Sùng ông, Sùng bà gia đình khá giả, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, Thiện Sĩ đọc sách rồi thiu thiu ngủ, Thị Kính ngồi khâu thấy chồng có sợi râu mọc ngược, bèn cầm dao toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, sùng bà giận dữ đổ riệt cho con dâu có ý định giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ.

+ Phần 2: Án hoang thai: Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông vốn tính lẳng lơ, đem lòng say mê chú tiểu Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mầu ăn nằm với anh Nô là đầy tớ rồi có thai. Làng bắt vạ, bí thế Thị Mầu đổ cho Kính Tâm. Kính Tâm chịu oan, bị sư cụ đuổi ra ở ngoài tam quan (cổng chùa). Thị Mầu đem con bỏ cho Kính Tâm nuôi.

+ Phần 3: Oan tình được giải, Thị Kính lên toà sen: Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng “hoá” (chết), được lên toà sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi “hoá”, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới biết Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.

Câu 2. Đọc kĩ trích đoạn Nỗi oan hại chồng và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó.

- Ở câu hỏi này, học sinh phải nắm được đặc điểm của thể loại chèo: Chèo là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu. Vì trước kia chèo thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ. Bên cạnh việc thể hiện sự cảm thông với số phận bất hạnh của người lao động, đặc biệt là phụ nữ, đồng thời đề cao phẩm chất và tài năng của họ, chèo còn châm biếm, đả kích mạnh mẽ những điều bất công, xấu xa trong xã hội phong kiến đương thời.

- Hiểu được nghĩa của từ Hán - Việt, những thành ngữ, tục ngữ để có thể hiểu đúng về nghĩa của từ, nghĩa của câu trong văn bản.

Câu 3. Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có mấy nhân vật? Những nhân vật nào là nhân vật chính thể hiện xung đột kịch? Những nhân vật đó thuộc các loại vai nào trong chèo và đại diện cho ai?

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo Quan Âm Thị Kính. Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch, gồm: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Nhân vật chính là Thị Kính, các nhân vật phụ làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp. Thiện Sĩ và Sùng ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh ác của Sùng bà.

Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu). Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hợm hĩnh, tự cao tự phụ về dòng giống cao sang, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét, đánh giá người khác theo nhận thức hồ đồ của mình. Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo. Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền, nết na, thuỳ mị nhưng bị sùng bà nanh ác gán cho tội giết chồng. Nỗi oan khiên ghê gớm khiến cho hạnh phúc vợ chồng tan vỡ, Thị Kính bị đuổi khỏi nhà chồng và đau khổ nhất là phải chứng kiến cảnh người cha già kính yêu vì mình mà bị Sùng ông, sùng bà sỉ nhục.

Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính về hình thức là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng về bản chất lại là mâu thuẫn gay gắt giữa kẻ thống trị và người bị trị. Đó là cái nút đầu tiên trong vở chèo bộc lộ thân phận, địa vị thấp kém của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia đình và hôn nhân thời phong kiến.

Câu 4. Khung cảnh ở phần đầu trích đoạn là khung cảnh gì? Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính ở đây, em có nhận xét gì về nhân vật này?

Mở đầu là cảnh sinh hoạt đầm ấm: Vợ vá may thêu thùa, chồng đọc sách. Tuy không phổ biến và gần gũi như cảnh chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa trong ca dao nhưng nó cũng thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình của nhân dân lao động.

Trong khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng. Khi chồng học bài mệt mỏi ngủ thiếp đi, nàng dọn lại kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng bắn khoăn lo lắng về một điềm báo chẳng lành. Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta... Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an. Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. Tâm trạng của nàng là tâm trạng của người vợ yêu thương chồng thắm thiết.

Câu 5. Thảo luận ở lớp: Hãy liệt kê và nêu nhận xét của em về hành động và ngôn ngữ của Sùng bà đối với Thị Kính.

Thái độ của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn. Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng bà dúi đầu Thị Kính ngã xuống rồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho thanh minh gì cả.

Sùng bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ. Mỗi lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ thứ tội mà không cần biết sự tình ra sao. Mụ sỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính định giết chồng mà theo mụ thì Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa; là con nhà thấp hèn không xứng với nhà mụ:

- Giống nhà bà đây giống phượng giống công - Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ - Nhà bà đây cao môn lệnh tộc - Mày là con nhà cua ốc - Trứng rồng lại nở ra rồng - Liu điu lại nở ra dòng liu điu - Đồng nát thì về Cầu Nôm, Con gái nỏ mồm về ở với cha... Tất cả những lời nói và cử chỉ đó đã bộc lộ bản chất của một mụ nhà giàu bất nhân, bất nghĩa.

Lời lẽ của Sùng bà chứa đựng toàn là sự phân biệt đối xử. Vốn từ ngữ dùng để so sánh chuyện cao thấp, sang hèn, giàu nghèo... của mụ phong phú đến mức đáng sợ. Mâu thuẫn giữa mụ và Thị Kính đã vượt khỏi mâu thuẫn mẹ chồng - nàng dâu. Mụ đã trả nó vào đúng vị trí là mâu thuẫn giai cấp. Các điệu hát sắp, nói lệch... phù hợp với việc thể hiện thái độ trấn áp phũ phàng và giọng điệu kiêu kì, tự phụ về dòng giống giàu sang, khinh thị người nghèo khó của mụ. Nhân vật sùng bà chỉ xuất hiện trong một lớp diễn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tính cách của vai mụ ác trong chèo cổ. Mụ ra oai sấm sét để tỏ rõ “phép nhà”. Mụ tự cho mình cái quyền tạo ra “luật” và “lệ” trong gia đình. Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được gia đình chồng chấp nhận bởi vì nàng không xuất thân từ nguồn gốc “con nhà gia thế". Mâu thuẫn giai cấp không thể dung hoà và định kiến xã hội đã tác động ghê gớm đến cuộc hôn nhân này.

Câu 6. Trong trích đoạn, mấy lần Thị Kính kêu oan? Kêu với ai? Khi nào lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông? Em có nhận xét gì về sự cảm thông đó?

Khi bị sùng bà gán cho tội giết chồng, Thị Kính đã có những lời nói, cử chỉ thật nhẫn nhục, đáng thương. Năm lần kêu oan thì bốn lần tiếng kêu của nàng hướng về chồng và mẹ chồng. Lần thứ nhất, nàng kêu oan với mẹ chồng: Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ ơi! Lần thứ hai, vẫn với mẹ chồng: Oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ ba, kêu oan với chồng: Oan thiếp lắm chàng ơi! Lần thứ tư, một lần nữa, lại kêu oan, van xin mẹ chồng: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

Thị Kính kêu oan với chồng nhưng vô ích bởi Thiện Sĩ là gã đàn ông đớn hèn, nhu nhược. Hắn bỏ mặc người vợ hết lòng thương yêu, chăm sóc, gắn bó với mình cho bà mẹ độc ác hành hạ. Lúc này, Thiện Sĩ chỉ là một nhân vật thừa trên sân khấu. Lời van xin của Thị Kính giống như lửa đổ thêm dầu, càng làm bùng lên những lời đay nghiến lăng nhục của Sùng bà. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan lại càng dày. Giữa gia đình nhà chồng, người phụ nữ đức hạnh ấy hoàn toàn cô độc. Chỉ đến lần cuối cùng, Thị Kính kêu oan với cha đẻ là Mãng ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông. Mãng ông nói trong nước mắt:

Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan

Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào!

Đây là sự cảm thông đầy đau khổ và bất lực của người cha già; là sự cảm thông của những người có cùng thân phận nghèo khổ, cùng đẳng cấp trong xã hội. Kết cục của nỗi oan là tình vợ chồng giữa Thị Kính và Thiện Sĩ tan vỡ, nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng.

Câu 7. Thảo luận ở lớp: Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, sùng bà và Sùng ông còn làm điều gì tàn ác? Theo em, xung đột kịch trong trích đoạn này thể hiện cao nhất ở chỗ nào? Vì sao?

Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng bà và sùng ông còn nhẫn tâm dựng lên một vở kịch tàn ác: lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, kì thực là bắt Mãng ông nhận con gái về để cha con Mãng ông phải nhục nhã ê chề. Hơn thế nữa, Sùng ông đã phủ nhận quan hệ thông gia bằng những hành động vũ phu. Cảnh này được xây dựng bằng những chi tiết, hình ảnh, lời nói thật sinh động:

Mãng ông: Ông ơi! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với, ông ơi!

Sùng ông: Biết này!

(Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào. Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau khóc.)

Sự việc Sùng bà cho gọi Mãng ông đến để trả Thị Kính đã thể hiện tính cách bất nhân bất nghĩa của mụ, đồng thời bộc lộ nỗi bất hạnh lớn nhất của Thị Kính. Lúc này, xung đột kịch được thể hiện cao nhất. Thị Kính như bị đẩy đến cực điểm của bi kịch. Nàng chơi vơi trong nỗi oan ức tày trời, nỗi đau tình vợ chồng tan vỡ cộng thêm nỗi nhục nhã, đau đớn trước cảnh người cha già kính yêu bị chính cha mẹ chồng khinh khi, hành hạ.

Cuối lớp diễn, trên sân khấu chỉ còn lại hai cha con Thị Kính giữa sự lạnh lùng đến tàn nhẫn. Cảnh hai cha con ôm nhau than khóc là hình ảnh của những người nghèo khổ chịu oan ức mà hoàn toàn bất lực. Cảnh Sùng bà quy kết, đổ vạ cho Thị Kính diễn ra chóng vánh, dồn dập. Còn cảnh hai cha con Thị Kính ôm nhau than khóc thì kéo dài trên sân khấu. Sự bố trí như vậy mang ý nghĩa tố cáo cái ác và cảm thông sâu sắc với cái thiện đang bị cái ác bủa vây.

Câu 8. Qua cử chỉ và ngôn ngữ nhân vật, hãy phân tích tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà. Việc Thị Kính quyết tâm “trá hình nam tử bước đi tu hành” có ý nghĩa gì? Đó có phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ không?

Thái độ của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà chồng được đặc tả: Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay.

Chiếc kỉ, thúng khâu, chiếc áo đang khâu dở là bằng chứng cho tình cảm thuỷ chung, hiền dịu của người vợ yêu chồng nhưng giờ đây lại bị coi là chứng cứ của sự thất tiết. Sự đảo lộn đột ngột đó đã làm cho trái tim đa cảm của Thị Kính đau đớn, bàng hoàng. Tâm sự của nàng thể hiện qua điệu sử rầu và nói thảm:

Thương ôi! Bấy lâu nay sắt cầm tịnh hảo

Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi.

Một bên là những kỉ niệm hạnh phúc của tình chồng vợ, một bên là khoảnh khắc chớp nhoáng của sự tan vỡ, chia lìa. Lời thoại gợi lên rất rõ hình ảnh một người phụ nữ bị hàm oan đang vô cùng đau khổ và bơ vơ trước cuộc đời vô định.

Trong nỗi đau tình vợ chồng chia cắt, nỗi nhục khi phẩm giá bị chà đạp, sự ê chề khi không bảo vệ được người cha già bị gia đình chồng sỉ mắng, Thị Kính vẫn giữ được bản chất chân thật, hiền lành, giữ gìn phép tắc luân lí của đạo dâu con.

Qua cử chỉ và ngôn ngữ nhân vật, người đọc thấy tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà là tâm trạng bơ vơ, lạc lõng, buồn rầu không sao kể xiết.

Việc sử dụng các từ đối lập diễn tả rõ nét những trạng thái đối lập nhau, hai vợ chồng đang êm ấm - sau đó chia lìa vì sự hiểu lầm, vì một nỗi oan ức không thể nào thanh minh và tệ nhất là người chồng cũng không tin rằng vợ mình vô tội.

Việc Thị Kính quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành có ý nghĩa nói lên tình trạng bế tắc không lối thoát. Trở trêu thay, tưởng lên chùa sẽ được giải thoát, nhưng khi cải trang thành chú tiểu thì Thị Kính lại bị Thị Mầu vu oan. Nàng bị đuổi ra khỏi chùa, phải ở ngoài tam quan và lại bị oan ức, nhục nhã một lần nữa.

Câu 9. Tóm tắt ngắn gọn trích đoạn Nỗi oan hại chồng.

Thị Kính ngồi may vá, Thiện Sĩ ngồi đọc sách bên cạnh rồi thiu thiu ngủ. Nhìn thấy chồng có sợi râu mọc ngược dưới cằm, Thị Kính bèn lấy dao khâu định xén đi. Bất ngờ lúc đó Thiện sĩ giật mình tỉnh dậy, sợ hãi kêu la hô hoán. Bố mẹ chồng vốn không ưa con dâu nên nhân cơ hội này bèn vu cho Thị Kính tội giết chồng. Mặc cho Thị Kính van xin, kêu oan tới bốn lần nhưng sùng ông và Sùng bà vẫn mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi cô về với bố mẹ. sỉ nhục con dâu chưa đủ, họ còn nói dối là mời Mãng ông sang ăn cữ cháu để làm cho hai bố con ê chề, tủi hổ. Thị Kính khóc than thảm thiết trước nỗi oan không thể nào thanh minh được.

Câu 10. Thảo luận ở lớp: Nêu chủ đề của trích đoạn Nỗi oan hại chồng. Em hiểu thế nào về thành ngữ “Oan Thị Kính”?

Chủ đề của đoạn trích Nỗi oan hại chồng thể hiện phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan ức và sự bế tắc đến cùng cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Sự đối lập giữa hai giai cấp thống trị và bị trị rất gay gắt thông qua xung đột hôn nhân, xung đột gia đình.

Chủ đề chính của vở chèo Quan Âm Thị Kính có thể tóm gọn trong một chữ Oan. Nỗi oan khuất của người phụ nữ được tập trung cao độ và sâu sắc trong vở chèo này.

Thành ngữ Oan Thị Kính được dùng để nói đến những nỗi oan trái đến mức phi lí, người bị oan không thể thanh minh về nỗi oan khiên của mình. Xuất phát từ câu chuyện của Thị Kính, một phụ nữ ngoan hiền, hết lòng thương yêu chồng, thế nhưng chỉ vì một hành động nhỏ nhặt mà bị vu oan đến mức tan vỡ hạnh phúc, bị đay nghiến tàn nhẫn, bị trả về với bố mẹ đẻ trong nỗi tủi nhục, uất ức. Định nương nhờ cửa Phật để tìm sự thanh thản trong lòng, nhưng ở đây Thị Kính lại bị Thị Mầu vu oan tội làm cho thị có thai. Thị Kính lại bị đuổi khỏi chùa, phải ra ở tam quan, chịu khổ nhục, oan ức một lần nữa. Nỗi oan khiên tày trời của nàng được đúc kết qua hai câu thơ:

Lúc làm vợ bị chồng ngờ thất tiết,

Khi giả trai bị gái đổ oan tình.