Câu 1. Đọc kĩ các câu tục ngữ và chú thích trong bài để hiểu văn bản và những từ ngữ khó.
* Chú thích về khái niệm tục ngữ tập trung nói đến mấy ý sau:
- Hình thức: Tục ngữ là câu nói diễn đạt một ý trọn vẹn. Tục ngữ có đặc điểm là ngắn gọn, có kết cấu bền vững, có hình ảnh và nhịp điệu, vì vậy rất dễ nhớ và dễ lưu truyền. Ví dụ:
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
- Nội dung : Tục ngữ đúc kết những kinh nghiệm của nhân dân trong cách quan sát các hiện tượng thiên nhiên, trong lao động sản xuất, trong quan hệ với con người, xã hội... Phần lớn tục ngữ chỉ có nghĩa đen, tức là nghĩa cụ thể, trực tiếp, gắn liền với hiện tượng mà nó phản ảnh. Ví dụ câu: Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt: Kiến bò lên cao vào tháng bảy Âm lịch là hiện tượng báo sắp có lũ lụt. Bên cạnh đó có những câu ngoài nghĩa đen còn hàm chứa nghĩa bóng, nghĩa gián tiếp, biểu tượng. Ví dụ câu: Tấc đất tấc vàng có ý nghĩa khẳng định giá trị của đất đai cũng quý như vàng.
- Cách sử dụng: Tục ngữ được nhân dân ta sử dụng thường xuyên trong mọi hoạt động của đời sống để làm cho lời nói thêm hay, thêm sinh động, sâu sắc. Ví dụ, khi phê phán người có thái độ vô ơn, bạc bẽo, ta có thể nói: “Anh nên biết rằng: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Câu 2. Có thể chia tám câu tục ngữ trong bài làm mấy nhóm? Mỗi nhóm gồm những câu nào? Gọi tên từng nhóm đó.
Tám câu tục ngữ nêu trên có thể chia làm hai nhóm có quan hệ chặt chẽ với nhau. Bốn câu đầu nói về thiên nhiên, bốn câu sau nói về lao động sản xuất. Các hiện tượng thiên nhiên như mưa, nắng, bão, lụt... chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến việc trồng trọt, chăn nuôi của nhà nông.
Câu 3. Phân tích từng câu tục ngữ theo những nội dung sau:
a) Nghĩa của câu tục ngữ.
b) Cơ sở thực tiễn của kinh nghiệm nêu trong câu tục ngữ.
c) Một số trường hợp có thể áp dụng kinh nghiệm nêu trong câu tục ngữ. (Ví dụ: Có thể ứng dụng câu 1 vào việc sử dụng thời gian cho phù hợp ở mùa hè, mùa đông như thế nào?)
d) Giá trị của kinh nghiệm mà câu tục ngữ thể hiện.
* Câu 1: Đây là kinh nghiệm về đặc điểm thời tiết của các mùa trong năm:
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
Nghĩa đen của câu tục ngữ này là: tháng năm (Âm lịch), thì đêm ngắn, ngày dài; tháng mười thì đêm dài, ngày ngắn. Cách nói cường điệu có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ấy: chưa nằm đã sáng, chưa cười đã tối. Phép đối xứng giữa hai câu làm nổi bật sự trái ngược giữa đêm mùa hạ và ngày mùa đông ở miền Bắc.
* Câu 2: Là nhận xét và kinh nghiệm phán đoán thời tiết:
Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
Câu này có hai vế đối xứng, nhấn mạnh ý: Sự khác biệt về mật độ sao trên bầu trời đêm hôm trước sẽ dẫn đến sự khác biệt về hiện tượng nắng hay mưa trong ngày hôm sau.
- Vế thứ nhất: Mau sao thì nắng: Mau có nghĩa là dày, nhiều. Hễ đêm trước nhiều sao thì hôm sau trời nắng to.
- Vế thứ hai: vắng sao thì mưa: vắng có nghĩa là ít, thưa... Hễ đêm trước ít sao thì ngày hôm sau trời sẽ mưa.
- Nghĩa cả câu: Đêm trước nhiều sao báo hiệu hôm sau trời sẽ nắng. Đêm trước ít sao báo hiệu hôm sau trời sẽ mưa.
* Câu 3: Là kinh nghiệm về hiện tượng thời tiết trước khi có bão:
Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
Ráng là màu vàng xuộm giống như màu mỡ gà của mây do mặt trời chiếu vào. Ráng mỡ gà thường xuất hiện ở phía chân trời vào thời điểm chiều muộn trước những hôm có giông bão. Nó như dấu hiệu báo trước để con người biết mà lo chống giữ nhà cửa cho chắc chắn, nhằm giảm bớt tác hại ghê gớm do thiên tai gây ra.
Câu tục ngữ này đã lược bỏ một số thành phần để thành câu rút gọn, nhấn mạnh vào nội dung chính cho mọi người dễ nhớ.
* Câu 4: Là kinh nghiệm về hiện tượng thời tiết trước khi có lụt:
Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt.
Cứ đến tháng bảy (Âm lịch) mà thấy hiện tượng kiến rời khỏi tổ từng đàn lớn, kéo nhau từ chỗ đất thấp lên chỗ đất cao thì nhất định thế nào cũng sắp xảy ra lụt lội.
Ở nước ta, mùa mưa lũ thường xảy ra vào tháng bảy, tháng tám Âm lịch, có năm kéo dài sang cả tháng chín, tháng mười. Từ thực tế quan sát được nhiều lần, nhân dân tổng kết thành quy luật. Kiến là loại côn trùng rất nhạy cảm với những thay đổi của khí hậu, thời tiết. Khi trời sắp có những đợt mưa to kéo dài, các loại kiến sẽ từ trong tổ kéo ra đàn đàn lũ lũ, di chuyển chỗ ở lên cao để tránh bị ngập nước và để bảo tồn nòi giống.
* Câu 5: Là nhận xét của nông dân về giá trị của đất đai:
Tấc đất, tấc vàng.
Hình thức câu tục ngữ này được rút gọn tối đa, chỉ còn bốn tiếng chia thành hai vế đối xứng rất dễ hiểu, dễ nhớ. Nội dung của nó nêu bật tầm quan trọng và giá trị to lớn của đất đai canh tác đối với nông dân.
Tấc là đơn vị đo lường cũ trong dân gian bằng 1/10 thước. Đất tức là đất đai trồng trọt chăn nuôi. Tấc đất: mảnh đất rất nhỏ. Vàng là kim loại quý thường được cân bằng cân tiểu li, hiếm khi đo bằng tấc, thước. Tấc vàng chỉ lượng vàng lớn, quý giá vô cùng. Câu tục ngữ đã lấy cái có giá trị rất nhỏ (tấc đất) so sánh với cái có giá trị rất lớn (tấc vàng) để khẳng định giá trị của đất đai đối với nhà nông. Nghĩa cả câu là: Một mảnh đất nhỏ bằng một lượng vàng lớn. Đất đai cũng quý giá như vàng.
* Câu 6: Là nhận xét và kinh nghiệm về hiệu quả của các hình thức chăn nuôi, trồng trọt:
Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.
Chuyển câu tục ngữ phiên âm chữ Hán này sang tiếng Việt thì nó có nghĩa là: Thứ nhất nuôi cá, thứ nhì làm vườn, thứ ba làm ruộng. Thứ tự nhất, nhị, tam cũng là thứ tự lợi ích của các nghề nuôi cá, làm vườn, trồng lúa mang lại cho người nông dân.
Trong các nghề kể trên, đem lại nhiều lợi ích nhất là nuôi cá (canh trì), tiếp theo là làm vườn (canh viên), sau đó là làm ruộng (canh điền).
Bài học rút ra từ câu tục ngữ trên là: Nông dân muốn làm giàu cần phải phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản. Trong thực tế, bài học này đã được áp dụng triệt để. Nghề nuôi tôm, cá, ở nước ta ngày càng được đầu tư phát triển, thu lợi nhuận lớn gấp nhiều lần trồng lúa.
* Câu 7: Nội dung câu này khẳng định tầm quan trọng của các yếu tố cần thiết trong nghề trồng lúa:
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
Phép liệt kê có tác dụng vừa nêu rõ thứ tự, vừa nhấn mạnh vai trò của từng yếu tố. Các chữ nhất, nhì, tam, tứ có nghĩa là: thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Nghĩa cả câu là: Thứ nhất là nước, thứ hai là phân, thứ ba là chuyên cần, thứ tư là giống. Kinh nghiệm này được đúc kết từ nghề trồng lúa nước là phải bảo đảm đủ bốn yếu tố: nước, phân, cần, giống, trong đó yếu tố quan trọng hàng đầu là nước. Có đủ nước thì lúa mới tốt, mùa màng mới bội thu.
* Câu 8: Là kinh nghiệm trong việc trồng lúa nói riêng và trồng trọt các loại hoa màu khác nói chung:
Nhất thì, nhì thục.
Hình thức câu tục ngữ này đặc biệt ở chỗ nó được rút gọn tối đa và chia làm 2 vế đối xứng. Nội dung nhấn mạnh hai yếu tố thì và thục. Thì là thời vụ. Thục là đất canh tác phù hợp với từng loại cây. Nội dung câu tục ngữ này khẳng định trong trồng trọt, quan trọng nhất là thời vụ (thời tiết), thứ hai là đất canh tác.
Câu 4. Nhìn chung, hình thức của tục ngữ có những đặc điểm sau:
- Ngắn gọn;
- Thường có vần, nhất là vần lưng;
- Các vế đối xứng nhau cả về hình thức và nội dung
- Lập luận chặt chẽ, giàu hình ảnh.
* Hãy minh hoạ những đặc điểm nghệ thuật đó và phân tích giá trị của chúng bằng những câu tục ngữ trong bài học.
Qua các câu tục ngữ trên, ta có thể rút ra đặc điểm chung về mặt hình thức của chúng là:
- Tuy hình thức tục ngữ ngắn gọn nhưng nội dung lại cô đọng và hàm súc.
- Vần trong tục ngữ là vần lưng tạo ra nhịp điệu êm tai, dễ thuộc, dễ nhớ, có tác dụng khắc sâu, nhấn mạnh.
- Tục ngữ thường có các vế đối xứng với nhau cả về hình thức và nội dung, làm nổi bật ý cần biểu đạt.
- Tục ngữ có lập luận chặt chẽ là nhờ ở kết cấu có các vế đối xứng với nhau.
- Các hình ảnh trong tục ngữ thường cụ thể và sinh động. Nhờ cách nói bằng hình ảnh mà nội dung tục ngữ trở nên tự nhiên, dễ hiểu.
* Phân tích giá trị nghệ thuật của từng câu:
- Câu 1: Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, Ngày tháng mười chưa cười đã tối. Có hai vế đối xứng nhau về ý: đêm - ngày; sáng - tối. Trong mỗi vế lại có vần lưng: năm - nằm; mười - cười.
Trong các hình ảnh: chưa nằm đã sáng, chưa cười đã tối, tác giả dân gian đã dùng lối nói ngoa dụ, phóng đại để làm cho ý cần diễn đạt được nhấn mạnh.
- Câu 2: Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa: Câu này cũng có hai vế đối xứng đối nhau về ý: mau - vắng; nắng - mưa. Vần lưng: nắng - vắng.
- Câu 3: Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ: Có vần lưng: gà - nhà. Câu này giống như một lời nhắc nhở mọi người phải chuẩn bị chu đáo để hạn chế tác hại của thiên tai.
- Câu 4: Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt: Có vần lưng: bò - lo; hai vế đối xứng nhau về âm điệu.
- Câu 5: Tấc đất, tấc vàng: Hai vế đối xứng về hình ảnh: đất - vàng; về âm điệu và bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa.
- Câu 6: Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền: Có ba vế cùng một kiểu kết cấu, có vần lưng trì - nhị; vần chân viên - điền.
- Câu 7: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống: Có bốn vế, vế một và hai đối xứng về vần điệu; vế ba và bốn cũng vậy. Câu có vần lưng: phân - cần.
- Câu 8: Nhất thì, nhì thục: Có hai vế đối xứng về âm điệu. Có vần lưng: thì - nhì.
Câu 5. * Sưu tầm thêm một số câu tục ngữ có nội dung phản ánh kinh nghiệm của nhân dân ta về các hiện tượng mưa, nắng, bão, lụt.
+ Mưa, nắng:
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
- Nắng chóng trưa, mưa chóng tối.
- Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
- Mưa tháng ba hoa đất,
Mưa tháng tư hư đất.
- Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
- Trời đang nắng, rễ si trắng thì mưa.
+ Bão, lụt:
- Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
- Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa.
- Mống đông, vồng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật.
- Sấm phía đông, chẳng mưa giông cũng bão giật.