BÀI 32. BẮC SƠN (Trích hồi bốn)
I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê ở xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội, có sáng tác trước năm 1945. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông là một trong những nhà văn chủ chốt của nền văn học Cách mạng. Ông còn viết nhiều tác phẩm cho thiếu nhi. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. Kịch "Bắc Sơn" được sáng tác và đưa lên sân khấu đầu năm 1946, trong không khí sôi sục của những năm đầu của cuộc kháng chiến. Kịch lấy bối cảnh cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940 – 1941), chuyện kịch tập trung vào gia đình cụ Phương, một nông dân người Tày ở Bắc Sơn. Cụ Phương và Sáng - con trai cụ - hăng hái tham gia chiến đấu, còn bà cụ Phương và Thơm – con gái cùng với chồng là Ngọc thì sợ hãi, lẩn tránh. Cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi bước đầu. Đảng cử ông giáo Thái là cán bộ Đảng đến củng cố phong trào. Quân Pháp do Ngọc dẫn đường chiếm lại được Vũ Lăng, đàn áp dã man quần chúng cách mạng và truy lùng những cán bộ lãnh đạo. Cụ Phương và Sáng bị hi sinh. Trước cái chết của cha và em, lại dần nhận ra bộ mặt phản động của Ngọc, Thơm đau xót, ân hận. Khi Thái và Cửu chạy nhầm vào nhà Thơm, cô đã che giấu và cứu thoát hai người. Biết tin Ngọc dẫn đường cho Pháp lên đánh du kích, Thơm đã luồn rừng báo cho quân ta kịp thời đối phó. Lúc quay về cô gặp Ngọc, bị y bắn, nhưng chính Ngọc lại trúng đạn của quân Pháp và chết.
3. "Bắc Sơn" là vở kịch năm hồi. Đoạn trích là hai lớp của hồi 4, thể hiện cuộc đấu tranh nội tâm của Thơm và hành động cứu hai cán bộ cách mạng.
Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng tình huống làm bộc lộ xung đột cơ bản của vở kịch giữa lực lượng Cách mạng và kẻ thù qua việc diễn biến nội tâm của Thơm - một cô gái có chồng theo giặc, từ chỗ thờ ơ, sợ liên luỵ với Cách mạng đến chỗ đứng hẳn về phía Cách mạng, che chở và giúp cứu thoát hai cán bộ. Qua đó khẳng định sức thuyết phục của chính nghĩa Cách mạng.
II – HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
1. Diễn biến của sự việc trong đoạn trích: Thái, Cửu bị truy lùng chạy nhầm vào nhà Thơm. Thơm bối rối và sợ hãi. Nhưng cô quyết tâm che chở cho hai người. Ngọc cùng đồng bọn truy lùng hai cán bộ nhưng không tìm được. Chính thời điểm này, Ngọc dần lộ mặt là tay sai cho giặc. Thơm đã che chở và cứu thoát được hai cán bộ cách mạng là Thái và Cửu.
2. Trong đoạn trích, tình huống căng thẳng là Thái, Cửu khi bị giặc đuổi đã chạy nhầm vào nhà Thơm. Thái tin tưởng vào Thơm, trong khi Cửu băn khoăn, lo lắng. Trước tình hình đó, Thơm đã dứt khoát che chở cho hai cán bộ cách mạng, đứng hẳn về phía cách mạng. Tình huống đó cũng làm cho Ngọc bị lộ mặt là kẻ tham gia truy lùng cán bộ, chính Ngọc là Việt gian đang cùng với bọn giặc lùng bắt Thái, Cửu để lĩnh thưởng.
3. Hoàn cảnh của Thơm lúc này là cha và em trai hi sinh, mẹ bỏ đi. Cô chỉ còn người thân duy nhất là Ngọc, chồng cô, nhưng Thơm đã nghi ngờ chồng. Đột ngột, ông giáo Thái và Cửu chạy nhầm vào nhà Thơm. Cô sợ hãi và bối rối. Nhưng bản chất lương thiện đã khiến Thơm không tố cáo hai người: "Tôi chết thì chết, chứ tôi không báo hai ông đâu". Không những không báo, Thơm còn chủ động giấu hai người vào buồng, và chỉ lối cho hai người thoát ra. Đối với Ngọc - chồng Cô, Thơm đã hiểu rõ bản chất của chồng. Cô nói to báo cho hai người cán bộ biết bọn địch ở phía sau nhà, ở chỗ buồng đi ra. Cô khôn khéo để Ngọc không nghi ngờ và Ngọc ra đi cùng đồng bọn.
Hành động của Thơm chứng tỏ cô đã đứng hẳn về phía cách mạng. Từ chỗ bị động, Cô đã chủ động che chở, và cứu thoát Thái, Cửu. Hành động của Thơm chứng tỏ tuy cách mạng bị đàn áp, nhưng sức sống của nó vẫn không thể bị tiêu diệt, nó vẫn tiếp tục ảnh hưởng và lôi cuốn cả những người vốn đứng ngoài như Thơm.
4. Tác giả để cho Ngọc bộc lộ bản chất của y qua hành động đi truy lùng các cán bộ cách mạng, trong việc y tính toán tiền thưởng khi bắt được cán bộ, qua việc y định tậu ruộng, chạy hàm cửu phẩm, định trị cho thằng Tốn nào đó đã mua tranh ruộng của y. Ngọc quyết tâm làm tay sai để có tiền, đồng thời anh ta cũng cố tỏ ra chiều vợ. Chính vì thế mà Thơm đã khéo léo đẩy Ngọc đi cùng với đồng bọn, kín đáo báo cho hai cán bộ biết bọn tay sai đứng ở sau nhà, lối đi từ buồng ra. Ngọc là người ham tiền, quyết tâm bắt hai cán bộ, y còn nguỵ biện rằng y không bắt, người khác cũng bắt và bắt sớm cho dân đỡ khổ.
Hai nhân vật Thái và Cửu đều lâm vào hoàn cảnh nguy khốn. Trong khi Cửu nóng nảy, xốc nổi, muốn hành động liều lĩnh ngay, hối hận vì đã đưa Thái vào chỗ nguy hiểm (vào nhà vợ Việt gian, chắc là chị ta cũng Việt gian) thì Thái lại hết sức bình tĩnh, Thái tin vào dòng máu nhà cụ Phương. Thái nghe giọng nói biết là Thơm không bao giờ làm việc bán rẻ hai người. Chính nhờ sự tin tưởng tuyệt đối của Thái mà Thơm mới đủ bình tĩnh để cứu hai người, đề nghị hai người nói nhỏ, không ra xem xét tình hình và lánh vào buồng.
Nét nổi bật của Thái và Cửu là bình tĩnh, không sợ chết, với Thái còn là sự nhạy cảm, tin rằng người như Thơm không thể làm điều ác, điều xấu.
5. – Xung đột kịch trong hồi bốn tập trung thể hiện mâu thuẫn đối đầu giữa phía địch mà tiêu biểu là Ngọc và đồng bọn truy bắt các cán bộ cách mạng. Cuộc đối đầu giữa Ngọc với Thái và Cửu. Trong cuộc đối đầu ấy, Thơm đã ngả hắn về phía Thái và Cửu để chống lại Ngọc. Xung đột lại thể hiện trong tâm trạng của Thơm, thúc đẩy tâm trạng nhân vật đi đến bước ngoặt quan trọng.
- Tình huống truyện: éo le, bất ngờ.
- Những đối thoại giữa Thái, Cửu, Thơm ngắn, căng thẳng, thể hiện sự gấp gáp, lo lắng, hồi hộp, bộc lộ được nội tâm và tính cách của nhân vật.
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
2. Có thể có nhiều loại kịch dựa trên những tiêu chí phân chia khác nhau. Dựa theo nội dung và tính chất của nội dung có thể chia thành bi kịch, hài kịch, chính kịch. Dựa theo tính chất trình diễn có thể chia thành kịch hát, kịch nói. Dựa trên cách tổ chức ngôn ngữ tác phẩm có thể chia thành kịch hát, kịch thơ, kịch nói. Những loại kịch mà em đã học gồm kịch hát (sân khấu dân gian: kịch hát - chèo Quan Âm Thị Kính), hài kịch (Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục - trích "Trưởng giả học làm sang" của Mô-li-e), kịch nói ("Bắc Sơn" của Nguyễn Huy Tưởng).
IV – THAM KHẢO
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, giữa lúc nghệ thuật sân khấu còn nhiều lúng túng, khó khăn trong việc thể hiện cuộc sống mới, vở kịch "Bắc Sơn" ra đời đã đáp ứng đòi hỏi của tình hình, nên rất được hoan nghênh. Ngay những lần diễn đầu tiên, nó đã gây được một tiếng vang rộng rãi. Có thể nói, đó là vở kịch nói đầu tiên biểu hiện thành công chủ đề cách mạng, đã trực tiếp đưa lên sân khấu hình ảnh một cuộc khởi nghĩa gay go nhưng thắng lợi, với hình tượng những con người "nhận đường", đến với Cách mạng.
(Nguyễn Văn Long, Từ điển văn học, NXB Khoa học xã hội, tập một, 1983)