BÀI 27. BẾN QUÊ (Trích)
I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An là một nhà văn quân đội - một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học chống Mĩ. Sau khi đất nước thống nhất, các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những tìm tòi quan trọng về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần đổi mới văn học nước ta từ những năm 80 của thế kỉ XX.
2. Truyện ngắn "Bến quê" in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985. Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày, với những chi tiết sinh hoạt đời thường để phát hiện những chiều sâu của cuộc sống với bao quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả.
II- HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
1. Nhân vật Nhĩ trong truyện ở vào một hoàn cảnh đặc biệt. Từng đi khắp nơi, về cuối đời, Nhĩ lại bị cột chặt vào giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo, đến nỗi không thể tự mình di chuyển được. Chính vào thời điểm ấy, Nhĩ lại phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê thân thuộc, một vẻ đẹp bình dị mà quyến rũ.
Đặt nhân vật vào trong tình huống nghịch lí ấy, tác giả muốn dẫn bạn đọc đến những trải nghiệm về cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của con người.
Qua những suy nghĩ của nhân vật, Nguyễn Minh Châu còn muốn mang đến cho bạn đọc một chiêm nghiệm khác : "con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình" và sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp rất gần gũi như cái bãi bồi bên kia sông hay người vợ tảo tần, giàu tình yêu và đức hi sinh thì phải đến lúc này, khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới cảm nhận, thấm thía được.
2. Trong buổi sáng đầu thu, khi sắp từ giã cõi đời, Nhĩ bỗng phát hiện ra những vẻ đẹp mà trước đây, dù có điều kiện đi khắp thế giới, anh đã không thể nhận thấy được :
- Đó là một không gian có chiều sâu và bề rộng : từ những bông bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, vòm trời và bãi bồi bên kia sông.
- Đó là một cảnh đẹp chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc tinh tế : những chùm hoa thưa thớt nhưng lại đậm sắc hơn, mặt sông Hồng như rộng thêm ra, vòm trời như cao hơn, những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông...". Những cảnh sắc ấy vốn rất quen thuộc, gần gũi nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh mới gặp.
Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống, những giá trị thường bị người ta bỏ qua hay lãng quên khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn, lấn át. Trong hoàn cảnh của Nhĩ, đó là sự thức tỉnh xen lẫn với niềm ân hận và nỗi xót xa.
3. Trong truyện ngắn này, ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Minh Châu rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo. Điều đó được thể hiện ngay từ cách lựa chọn và xử lý tình huống. Trong văn học, nhiều tác giả cũng đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh hiểm nghèo để làm nổi bật lên khát vọng sống và sức sống mạnh mẽ của con người hay về lòng nhân ái, sự hi sinh cao thượng,... Nguyễn Minh Châu đã khai thác tình huống này theo một hướng khác. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, nhân vật suy ngẫm, tự trải nghiệm về cuộc đời với những suy nghĩ sâu sắc.
Những suy nghĩ của nhân vật Nhĩ về lẽ sống, về cuộc đời, về những con người hết sức cụ thể như người vợ, đứa con và về chính cuộc đời mình. Trong con mắt của một người sắp từ giã cõi đời, cảnh vật trước mắt bỗng đẹp và đáng yêu kì lạ. Hình ảnh người vợ gầy guộc với bàn tay chan chứa yêu thương đã trở thành "nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này". Sự thức nhận của Nhĩ về vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông được tô đậm thêm qua hình ảnh của đứa con - trong hoàn cảnh bình thường - còn mải chơi và thấy bãi bồi bên kia sông chẳng có gì hấp dẫn. Đó chính là tình yêu đối với cuộc sống đã được trải nghiệm qua một cuộc đời nhiều thăng trầm, đang trải qua những giây phút hiểm nghèo.
4. Ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả chân dung và cử chỉ của nhân vật với vẻ rất khác thường : "Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó". Hành động này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày, thế nhưng qua suy nghĩ của Nhĩ trước đó, ta lại nhận ra một ý nghĩa khác : đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái "vòng vèo, chùng chình" để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
5. Trong truyện ngắn này, hầu như các hình ảnh đều mang tính đa nghĩa, vừa là nghĩa thực vừa là nghĩa biểu tượng:
- Hình ảnh bãi bồi, bến sông ngoài ý nghĩa thực còn là vẻ đẹp của đời sống bình dị, gần gũi, thân thuộc của quê hương, xứ sở.
- Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này đổ ụp vào giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng... gợi ra ý nghĩa sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng.
- Đứa con trai ham chơi gợi suy nghĩ về sự chùng chình, vòng vèo trong đời sống của con người.
- Hành động, cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện cũng mang ý nghĩa biểu tượng (đã phân tích ở câu 4).
6. Đoạn văn diễn tả những suy nghĩ của nhân vật khi thấy đứa con ham chơi, quên cả việc bố nhờ đã thể hiện sâu sắc chủ đề của truyện: trong cuộc sống, con người thường khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình. Cần phải thức tỉnh những giá trị và vẻ đẹp đích thực của đời sống ở những cái gần gũi, bình thường mà bền vững.
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
1. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của tác giả trong đoạn đầu của truyện.
Cảnh vật trong đoạn đầu được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ. Nó được miêu tả theo trật tự từ gần tới xa tạo nên một không gian vừa sâu vừa rộng : từ những bông bằng lăng ngay gần cửa sổ đến con sông Hồng, rồi vòm trời và sau là bãi bồi bên kia sông. Cảnh được miêu tả bằng những cảm xúc vô cùng tinh tế. Nó như là chắt lọc tất cả những minh mẫn còn sót lại của một con người (hoa như tím hơn, sông như rộng hơn, trời như cao hơn,...). Không gian và cảnh vật hiện ra trước mắt Nhĩ tưởng như gần gũi, quen thuộc nhưng lại mới mẻ và lạ lẫm vô cùng, tưởng như đây là lần đầu tiên Nhĩ cảm nhận được tất cả sự đẹp đẽ và giàu có của nó.
2. Nêu cảm nghĩ về đoạn văn.
Vì bệnh tật, Nhĩ không thể tự làm được cái điều mà mình mong muốn. Thế là anh đành phải nhờ đứa con thực hiện thay mình cái khát khao ấy (thay mình qua bên kia sông và đặt chân lên cái bãi phù sa màu mỡ). Nhưng đó chính là lúc mà anh lại gặp phải một bi kịch khác: đứa con không hiểu được khao khát của cha, nên nó đi làm cái việc ấy một cách miễn cưỡng và rồi cuối cùng nó lại bị cuốn hút vào một trò chơi hấp dẫn trên đường đi, làm lỡ mất chuyến đò sang ngang duy nhất trong ngày.
Đoạn trích nêu trên là một bài học nhân sinh, là một quy luật phổ biến của đời người mà Nhĩ đã nghiệm ra: đời người khó tránh được những lúc vòng vo hay chùng chình và người ta thường chẳng bao giờ nhiệt tình làm điều mà mình không thích. Đoạn trích vừa gợi ra nỗi buồn, vừa gợi một chút nhói đau của nhân vật Nhĩ, cũng như để lại nhiều suy ngẫm về cách sống cho mỗi chúng ta.
IV – THAM KHẢO
Bến quê là một trong vài truyện ngắn, ngắn nhất của Nguyễn Minh Châu. Đây là một truyện ngắn có thi pháp độc đáo, chất chứa một dung lượng nghệ thuật vượt tầm cái bến... quê.
Yếu tố thi pháp nổi nhất của truyện này là không gian nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu tập trung khai thác nó như một hình thức của quan niệm, của tư tưởng. Các yếu tố khác của thi pháp như thời gian nghệ thuật, hệ thống nhân vật, chi tiết nghệ thuật,... là các yếu tố cộng hưởng tạo một không gian độc đáo gắn liền với vận mệnh tinh thần văn hoá của nhân vật chính: anh Nhĩ.
Bến sông là một không gian ước lệ, tượng trưng trong truyền thống văn học. Ở đây, Nguyễn Minh Châu không dựng một không gian bến sông chung nào đó. Đây là cái bến quê như đầu đề tác phẩm. Nó là tất cả những phát hiện ấm áp tình người; tình đời của nhân vật cũng là của tác giả trước những gì thân quen nhất, thương yêu nhất (người vợ); những gì hồn nhiên, gần gũi nhất (bầy trẻ và ông lão láng giềng); những gì là giàu có, đẹp đẽ, thuần phác nhất và cổ sơ nhất của mảnh đất sinh thành ra ta và sẽ nhận ta về khi nhắm mắt xuôi tay. Đó là Bến quê, là cuộc sống thường nhật của bao kiếp người lam lũ làm ăn vẫn thao thức hoài một câu hỏi lớn về hạnh phúc.
Không gian bến quê, vì vậy, là một không gian tư tưởng mang quan niệm độc đáo của nhà văn về bước thức nhận của đường đời. Chiếc phản hẹp, căn phòng, khung cửa sổ, cái bến sông, không gian nhỏ hẹp ấy không diễn đạt một sự lùi về với "gió lùa gian gác xép. Đời tàn trong ngõ hẹp" (Vũ Hoàng Chương) hay với "giường chiếu hẹp" trong "Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn" (Chế Lan Viên), mà đây là một không gian tìm tòi, là sự phát hiện cả một thế giới mới lạ, đầy sức sống. Không gian Bến quê, theo ý nghĩa đó là một thức nhận sáng ngời của nhân vật về đường đời và cuộc sống. Nhưng oái oăm thay, nhân vật đau đớn trong một giới hạn mang tính bi kịch: đã nhìn thấy chân lí mà không còn điều kiện để thực hiện. Đó là "sự bất lực của thực tiễn” trước khát vọng đẹp đã lành mạnh như một "yêu cầu tất yếu". Đó là một "tình huống thế giới" của nhân vật bi kịch chân chính. Điều cơ bản đó là một thức nhận tuy đau khổ nhưng ngời sáng, cảnh tỉnh cho con anh và lớp người kế bước. Vì vậy không gian nhỏ hẹp kia là thước đo không gian rộng lớn của nhân loại. Xét ở phương diện này, Nguyễn Minh Châu đã nối bước văn hào Nga vĩ đại Đốt-xtôi–ép–xki (Truyện của Đốt diễn ra trong những không gian cực nhỏ nhưng chất chứa dung lượng tư tưởng nghệ thuật cực lớn. Ông nói : tôi đo cái thước không gian này bằng sự vĩnh cửu).
Với Nguyễn Minh Châu, không gian Bến quê cũng là một không gian văn hoá thẩm mĩ mới mẻ anh phát hiện trong những tác phẩm sau 1980. Trước đó, không gian trong tác phẩm của anh gắn liền với những bước đi lớn của lịch sử qua khói lửa chiến tranh theo những "Dấu chân người lính", qua những "Miền cháy" với "Những vùng trời khác nhau"... Không gian đó gắn với không khí sử thi và nhân vật anh hùng. Đó là thi pháp có giá trị rực rỡ của văn học một thời kì, mà ngay cả trong nhiều tác phẩm sau 1980 anh vẫn còn tiếp tục trình diễn nhân vật trong kiểu không gian rộng lớn đó, tất nhiên với một tư duy sáng tạo không dẫm lại "dấu chân" trước của mình. (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cơn dông...). Sau 1980, một kiểu không gian mới thức dậy trong anh miền đất lạ: cuộc sống thường nhật trong mỗi nếp nhà, tâm sự và vận mệnh cá nhân một con người, niềm thao thức thế sự, sự tự hối và phản tỉnh của đời người, những ngõ ngách khuất dạng của tâm hồn, tư tưởng... Bến quê khái quát cho kiểu không gian này, trong ý nghĩa tượng trưng của nó. Còn trong ý nghĩa trực tiếp cụ thể của Bến quê thì đó là mảnh đất quê hương, nơi đã sinh thành, nuôi dưỡng anh một thời trai trẻ, nơi anh li biệt mấy mươi năm vì nghĩa vụ làm người, nay anh như đứa con xa xứ khao khát trở về với "Mảnh đất tình yêu", đón tiếp một "Khách ở quê ra", rồi lại tìm về "Phiên chợ Giát" chót cùng sau bao nhọc nhằn nghĩ suy đau đớn và kì vọng vào sự đổi mới của đất quê. Tuy nhiên khát vọng sáng tạo của anh trên không gian Bến quê nay vẫn còn ở những dự đồ lớn lao phía trước. Đau đớn thay, đường về bến quê hương của con thuyền văn của anh còn dang dở. Bỗng nhiên tôi nghĩ đến số mệnh đời người hay là anh đã dự cảm điều bất hạnh về mình qua sự thức nhận sáng ngời và đau đớn của Nhĩ mấy năm trước ngày anh từ biệt chúng ta để bước vào cõi hư vô.
(Theo Lê Văn Tùng, Kỉ yếu Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu, Hội Văn nghệ Nghệ An, 1995)