I. THÀNH PHẦN GỌI – ĐÁP

1. Trong các từ ngữ in đậm ở phần trích, từ này dùng để gọi, cụm từ “Thưa ông” dùng để đáp.

2. Những từ ngữ dùng để gọi người khác hay đáp lời gọi của người khác không nằm trong sự việc được diễn đạt.

3. Trong những từ ngữ in đậm, từ này dùng để thiết lập quan giao tiếp (mở đầu sự giao tiếp), cụm từ “Thưa ông” có tác dụng duy trì sự giao tiếp.

II. THÀNH PHẦN PHỤ CHÚ

1. Khi bỏ qua các từ ngữ in đậm, các cầu nêu trên vẫn là những cầu nguyên vẹn. Điều này chứng tỏ rằng thành phần phụ chú không phải là một bộ phận thuộc cấu trúc cú pháp của câu đó, nó là thành phần biệt lập.

2. Những từ ngữ in đậm ở câu (a) chú thích thêm cho “đứa con gái đầu lòng”.

3. Trong ba cụm chủ - vị ở câu (b), “tôi nghĩ bậy” là cụm chủ - vị chỉ việc diễn ra trong trí của riêng tác giả. Hai cụm chủ - vị còn lại diễn đạt việc tác giả kể. “Tôi nghĩ bậy” có ý giải thích thêm rằng điều “lão không hiểu tốt” chưa hẳn đã đúng, nhưng tôi cho đó là lí do làm cho “tôi càng buồn hơn”.

III. LUYỆN TẬP

1. Từ ngữ dùng để gọi là: Này; dùng để đáp là: Vâng - Quan hệ giữa người gọi và người đáp là có trên có dưới và thân mật.

2. Lời gọi tha thiết nhưng không hướng tới riêng ai. Tác giả dân gian muốn hướng tới tất cả mọi người Việt Nam cùng chung nòi giống, cội nguồn.

3. Thành phần phụ chú gồm:

a) kể cả anh

b) các thầy, các cô giáo, các bậc cha mẹ, đặc biệt là những người mẹ

c) những người chủ của đất nước trong thế kỉ tới

d) (có ai ngờ), (thương thương quá đi thôi)

4. a) liên quan tới mọi người

b) liên quan tới những người nắm giữ chiếc chìa khóa của cánh cửa này

c) liên quan tới lớp trẻ

d) liên quan tới Cô bé và Mắt đen tròn