BÀI LÀM

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây, nhân dân cả nước đã tự nguyện, anh dũng làm nên nhiều chiến công hiển hách. Hình tượng người nông dân mặc áo lính đã đi vào thơ đẹp như bài ca không bao giờ quên. Một trong những bài thơ có giá trị đó là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Là một nhà thơ quân đội, tác giả hiểu rõ tình đồng đội cao quí của những người cùng lí tưởng. Tên bài thơ cũng độc đáo: “Đồng chí”.

Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu nơi xuất thân của anh bộ đội Cụ Hồ:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá,

Anh với tôi, đối người xa lạ

Từ phương trời chẳng hạn quen nhau,

Súng bên sủng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn, thành đối tri kỉ

Đồng chí!

Lời trao gửi tâm tình của hai người lính xa quê vào những phút giây nghỉ ngơi ngắn ngủi sau chặng hành quân dài vất vả, sau trận đánh ác liệt hay trong đêm rừng cùng nhau phục kích quân giặc. Lời tâm sự được tác giả diễn tả bằng hình ảnh đẹp, ấm cúng. Điều làm cho mọi người dễ xích lại gần nhau là những câu chuyện quê hương. Quê hương anh và làng tôi, cách gọi chứa đựng bao tình cảm gắn bó thiết tha. Không thấy nhắc đến một địa phương cụ thể nào, chỉ biết rằng quê hương anh là vùng nước mặn đồng chua. Câu thơ gợi nhiều hơn tả. Thành ngữ nước mặn đồng chua đi vào câu thơ rất tự nhiên, khiến người đọc liên tưởng đến một vùng đồng chiêm trũng ven biển quanh năm úng lụt. Cuộc sống người dân ở đây rất cực khổ, nghèo nàn.

Làng tôi thì đất cày lên sỏi đá ở vùng trung du dồi núi, đá sỏi... Con người phải đổi bát mồ hôi lấy bát cơm. Cả hai vùng quê nghèo, lam lũ. Nghèo và cực truyền từ đời này sang đời khác, năm này qua năm khác... Ấy vậy mà lúc xa quê, ai cũng thương cũng nhớ đến quặn lòng. Chính Hữu vốn nặng tình nghĩa với hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam nên giọng thơ anh có cảm xúc bồi hồi khó tả. Chỉ qua hai câu thơ thôi, tác giả đã nêu rõ thành phần xuất thân của người chiến sĩ, họ là nông dân nghèo khổ. Theo tiếng gọi cứu quốc thiêng liêng, họ tạm xa con trâu, mảnh ruộng, cầm súng giết giặc. Ra đi chiến đấu, mỗi người để lại sau lưng lũy tre quen thuộc, mái tranh nghèo và những người thân yêu nhất nơi quê hương.

Không hẹn mà nên, những người nông dân ấy gặp nhau tại một điểm: lòng yêu nước. Tình yêu quê hương, gia đình, nghĩa vụ công dân thúc giục họ lên đường chiến đấu. Bởi thế nên từ những phương trời xa lạ, mọi người chẳng hẹn mà quen nhau. Trong môi trường quân đội, đơn vị thay cho mái ấm gia đình, tình đồng đội thay cho tình gia đình. Cái xa lạ ban đầu nhanh chóng bị xóa đi bởi những người cùng cảnh ngộ. Sát cánh bên nhau chiến đấu, càng ngày họ càng cảm nhận sâu sắc về sự hòa hợp, gắn bó giữa đồng đội cùng chung lí tưởng và hành động:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn, thành đối tri kỉ.

Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chia nhau gian khổ, hiểm nguy; đêm đắp chung một chiếc chăn đơn, qua tâm sự vui buồn, họ thành tri kỉ. Khi đã thành tri âm tri kỉ rồi thì ngọt bùi san sẻ, sống chết có nhau. Giữa những lúc cơ cực thiếu thốn và thử thách ghê gớm của buổi đầu kháng chiến, tình đồng đội đã trở thành tình đồng chí thiêng liêng vô hạn. Đồng chí đứng tách riêng ra khỏi khổ thơ như một tiếng gọi thốt tự đáy lòng với bao tình cảm mến thương, trân trọng. Không còn một khoảng cách nào giữa những người chiến sĩ. Từ chỗ xa lạ đến quen nhau và giờ đây họ thành đồng chí của nhau, kề vai sát cánh chiến đấu để giải phóng quê hương, đất nước.

Đọc những câu thơ tiếp, ta hiểu hơn tâm sự của anh bộ đội:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhở người ra. lính.

Anh với tôi biết từng cơn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Áo anh sách vai

Quần tôi có vài miếng vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Nhà thơ thông cảm với các anh, đi chiến đấu, họ để lại bao khó khăn vất vả sẽ đè nặng lên vai cha già mẹ yếu, vợ dại, con thơ. Biết chắc là như thế nhưng các anh vẫn quyết ra đi cứu nước vì cứu nước là cứu nhà. Ruộng vườn thì gửi bạn thân cày; gian nhà không cũ kĩ, xiêu vẹo đành mặc kệ gió lung lay. Mặc kệ nghĩa là dẹp hết chuyện riêng tư sang một bên để lo đánh giặc trước đã. Phảng phất đâu đây cái chí của “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” (Nguyễn Đình Thi). Đấy là phong thái, là cách nói dân dã, mộc mạc của người dân. Hai cách nói khác nhau nhưng cùng chung một thái độ dứt khoát đưa nhiệm vụ cứu nước lên trên hết.

Xác định như vậy để đỡ lưu luyến lúc ra đi chứ không phải để mà quên. Ai mà đoạn tình đoàn nghĩa được với quê hương, gia đình? Ở chiến trường, lúc này lúc khác, các anh vẫn nhớ về hậu phương với nỗi nhớ thiết tha và hình ảnh ruộng nương, bè bạn, mái tranh nghèo tưởng chừng như đang lung lay trước cơn gió mạnh, lại hiện rõ trong tâm trí các anh.

Làng quê Việt Nam bao đời gắn bó với hình ảnh của cây đa, giếng nước, sân đình. Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính là cách nói khác đi về nỗi nhớ sâu nặng của chiến sĩ đối với quê hương, xứ sở. Nỗi nhớ ấy, tình yêu ấy đã đem lại cái hồn cho cảnh vật. Người nhớ cảnh, cảnh nhớ người. Chính tình yêu quê hương làng xóm đã thôi thúc các anh chiến đấu và chiến thắng quân thù.

Trải qua cuộc sống gian khổ, biết bao điều gắn bó chiến sĩ ta lại với nhau:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người cùng trán ướt mồ hôi.

Tôi với anh chung cảnh ngộ, anh với tôi chung một lí tưởng, chung đội ngũ và tôi với anh giờ đây lại chung cả những cơn sốt rét rừng ghê gớm. Cái căn bệnh quái ác mà lính ta anh nào cũng sợ. Sợ mà không sao tránh khỏi. Nhà thơ nhắc đến chuyện này như nhắc đến một kỉ niệm khó quên trong tình bạn, là sự rung động sâu sắc khi dựng nên được hình ảnh trung thực và giản dị của anh bộ đội cụ Hồ:

Áo anh sách vai

Quần tôi có vài miếng vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày.

Đoạn thơ thật đến từng chi tiết, từng hình ảnh và thật cả trong cách diễn tả. Đầu kháng chiến, chúng ta đánh Pháp trong hoàn cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc nên chiến sĩ ta có gì mặc nấy. Ở giữa rừng sâu, kim chỉ chẳng có, rách đâu lấy day rừng cột túm đấy. Vì vậy mới thành những giai thoại vui về các anh Vệ túm, Vệ trọc, giản dị đến sơ sài mà vẫn không kém oai phong. Thiếu thốn gian khổ là thế mà vẫn vui vẻ, tin tưởng. Miệng cười buốt giá... là thái độ coi thường thử thách, khó khăn, là chất lạc quan đến thanh thản của những con người hồn nhiên, giản dị. Đó cũng là cái dũng cảm thuộc về bản chất của con người lao động.

Đọc đến đây, ai mà không cảm động trước hình ảnh cha ông mình đánh giặc giữa trăm ngàn thiếu thốn. Có thể mới hiểu hơn, thương quí hơn những lớp người đi trước, đánh giặc với vũ khí tự tạo:

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm đao kiếm

Áo dài chân không

Đi lùng giặc đánh.

(Hồng Nguyên)

Khác chi người lính Tây Sơn áo vải cờ đào, khác chi người nông dân mến nghĩa làm quân chiêu mộ, chẳng cần qua mười tám ban vỡ nghệ vẫn anh dũng lao vào cuộc chiến đấu chống xâm lăng với rơm con cái, lưỡi dao phay mà cũng làm nên chiến thắng. Có sự gặp gỡ lạ kì giữa xưa và nay, tạo nên hình ảnh truyền thống của người dân Việt Nam giàu ngàn đời đánh giặc. Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình thương yêu sâu sắc của đồng đội:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn đạt cho hết tình đồng chí thiêng liêng trong hoàn cảnh ấy. Cái xiết tay thật chặt và ánh mắt cảm thông, tin cậy đủ nói lên tất cả.

Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Nó đã tạc vào thơ ca chân dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ mà khỏe khoắn, hào hùng:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Chất hiện thực và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh vẫn là cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá nhưng dường như nó bị đẩy lùi ra tít phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh của đồng đội đang sát cánh bên nhau trong thư thể sẵn sàng chiến đấu. Tình đồng chí thiêng liêng đã sưởi ấm lòng người chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đêm khuya chờ giặc, trăng đã xế ngang tầm súng và tác giả hạ câu thơ độc đáo: Đầu súng trăng treo. Trong sự tương phản giữa hai hình ánh sáng và trắng, người đọc vẫn tìm ra được mối quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến để bảo vệ hòa bình. Trăng tương trưng cho cái đẹp và cuộc sống yên vui. Súng và trắng là biểu tượng của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở, đồng thời nó cũng thể hiện lòng tin tưởng và tâm hồn yêu đời của chiến sĩ ta.

Bài thơ Đồng chí là bức chân dung sống động về anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến. Chính Hữu đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ với tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Bài thơ lưu lại mãi mãi trong kí ức bao thế hệ cầm súng chống xâm lăng từ đó đến nay. Bởi thế, nhắc đến tác giả là người đọc nhớ ngay đến bài thơ tuyệt vời này.