I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
- Đó là khúc ca bi tráng ca ngợi người nghĩa sĩ nông dân đã tự nguyện xả thân đánh giặc cứu nước.
2. Thân bài:
* Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân trong bài văn tế:
+ Vẻ đẹp đầu tiên của họ là ở tinh thần tự nguyện đánh giặc:
- Họ vốn là dân ấp, dân lân, quanh năm chỉ biết công việc đồng áng, ruộng rẫy: côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó.
- Trước cảnh đất nước bị xâm lăng và thái độ hèn nhát vô trách nhiệm của triều đình phong kiến, họ đã tự nguyện gánh vác trọng trách đánh giặc cứu nước: chém rắn, đuổi hươu, đoạn kinh, bộ hổ.
+ Vẻ đẹp thứ hai của họ là quyết tâm xả thân vì nghĩa lớn:
- Vào trận chiến đấu, dẫu biết là sẽ hi sinh nhưng họ không ngần ngại, nao núng, vẫn xông xáo tung hoành giết giặc bằng những vũ khí thô sơ tự tạo như lưỡi dao phay, rơm con cái, ngọn tầm vông...
- Lòng yêu nước, căm thù giặc, quan điểm chết vinh còn hơn sống nhục tạo cho họ sức mạnh phi thường trong chiến đấu.
+ Vẻ đẹp thứ ba của họ là vẻ đẹp của người anh hùng kì vĩ giữa chiến trường:
- Hình tượng lớn lao, mãnh liệt của người nghĩa sĩ tung hoành ngang dọc, làm chủ chiến trường, khiến quân giặc hồn kinh phách lạc và trở nên nhỏ bé, thảm hại.
- Hình tượng người anh hùng nghĩa sĩ nông dân sừng sững giữa nền trời đầy lửa khói, để lại dấu ấn không phai mờ trong lòng mọi người. Sự hi sinh anh dũng khiến họ trở nên bất tử.
* Cảm xúc của tác giả:
- Là cảm xúc bi tráng, phấn khích, yêu thương, khâm phục và ca ngợi.
- Ngòi bút tả thực sắc sảo của nhà thơ xứng đáng với hành động vì nước quên thân, với tư tưởng yêu nước đơn giản mà lớn lao của các nghĩa sĩ nông dân.
3. Kết bài:
- Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên tượng đài người nghĩa sĩ nông dân muôn thuở sáng ngời bằng ngôn ngữ và lòng cảm phục chân thành của mình.
- Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được đánh giá như một mốc son trong lịch sử văn chương Việt Nam.
II. BÀI LÀM
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu bởi nó biểu hiện cao độ nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương và khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể nói bài Văn tế là khúc ca bi tráng ca ngợi người nghĩa sĩ nông dân đã xả thân vì sự tồn vong của đất nước.
Vẻ đẹp đầu tiên ở họ là tinh thần tự nguyện đánh giặc. Vốn là những người dân ấp dân lân, quanh năm cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó nên họ biết thân phận nhỏ bé, hèn mọn của mình trong xã hội. Việc lớn nhất mà họ phải lo là làm sao đóng thuế đóng sưu cho đủ. Việc nước non là của vua chúa và triều đình phong kiến ở tận trên cao. Nay quân xâm lược gieo rắc tanh hôi đã ba năm mà mặt mũi quan quân chẳng thấy đâu. Triều đình chia rẽ năm bè bảy mối, chỉ có vài người chủ chiến, còn phần lớn là hèn nhát chạy dài trước tàu to súng lớn của thực dân Pháp.
Cảnh tượng ấy khiến tầng lớp dân đen con đỏ không thể bịt mắt làm ngơ. Lòng yêu nước hun đúc từ nghìn xưa sôi sục trong huyết quản, thôi thúc họ tự nguyện đứng lên đánh giặc:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kinh; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyện này dốc ra tay bộ hổ.
Không cần đợi lệnh trên, họ xung phong làm công việc cực kì trọng đại, cực kì khó khăn nguy hiểm là đoạn kinh, bộ hổ (chém cá kình, bắt hổ), tức là đánh lại quân giặc hung dữ và mạnh hơn mình gấp trăm lần.
Vẻ đẹp thứ hai của họ là tinh thần dũng cảm, dù biết trước là sẽ hi sinh nhưng không hề nao núng, vẫn một lòng ra sức, ra tay, dâng sinh mạng của mình cho đất nước. Tinh thần quyết chiến ấy đẹp biết bao nhiêu, cao cả biết bao nhiêu khi họ chỉ là những nông dân lam lũ, nghèo khổ nơi xóm ấp, tự ghép mình vào đội ngũ để xông ra chiến trường đánh giặc:
Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận bình thư, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi ; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Có nghĩa là người nông dân từ mái tranh nghèo xông thẳng ra chiến trường mà không hề được luyện tập mảy may. Tinh thần sẵn sàng ấy lại càng thêm lớn lao và đáng khâm phục khi ta nhìn vào vũ khí trong tay họ. Trang bị lớn nhất, đầy đủ nhất của họ chính là nhiệt thành yêu nước và tinh thần tượng nghĩa đặc biệt của người dân Nam Bộ; chứ rơm con cái, lưỡi dao phay, ngọn tầm vông... toàn những vật dụng vơ vội ở xó bếp, góc vườn mà đem đối chọi với vũ khí hiện đại của quân thù thì cái sắc bén, cái sức giết giặc của nó chỉ là ở trái tim, ở dũng khí của người nghĩa sĩ. Chao ôi! Vẻ đẹp của họ đây thật hào hùng, nhưng bên cạnh sự hào hùng là nỗi đau, nỗi thương đến rơi nước mắt!
Chúng ta hãy đọc kĩ những dòng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu miêu tả người nghĩa sĩ nông dân vào trận. Bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca hừng hực khí phách, rực lửa chiến đấu của một trận đánh oanh liệt và dữ dội:
Hoả mai đánh bằng rơm con cái, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma nơ hồn kinh; bọn hè trước, lũ ở sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Vẻ đẹp thứ ba này quả là tuyệt vời! Người nghĩa sĩ nông dân cực nhọc, nghèo khó, hèn mọn đã hiện lên thành một hình tượng anh hùng kì vĩ, lồng lộng giữa chiến trường. Hình tượng lớn lao, mãnh liệt ấy làm chủ trận chiến, áp đảo tất cả. Lưỡi dao phay, ngọn tầm vông của họ đâm ngang, chém ngược, tung hoành, hiên ngang nơi trận địa, khiến quân giặc hồn kinh phách lạc. Tiếng thét căm thù vang trời của họ át cả tiếng tàu thiếc tàu đồng súng nổ. Sức mạnh diệu kì của lòng yêu nước đã biến những vũ khí thô sơ thành sắc bén và lợi hại không ngờ. Rơm con củi, lưỡi dao phay cũng đốt xong nhà dạy đạo, cũng chém rớt đầu quan hai giặc. Trong một đoạn văn mà tác giả sử dụng rất nhiều động từ, cụm động từ miêu tả hành động mãnh liệt, hào khí bừng bừng của nghĩa sĩ. Trước khí thế dũng mãnh ấy, quân giặc hung dữ với súng lớn, tàu thiếc tàu đồng phải hoảng sợ, kinh hoàng và trở nên nhỏ bé đến thảm hại. Có thể nói hình tượng người nghĩa sĩ nông dân sừng sững nổi bật trên nền trời đầy khói lửa của chiến trường giống như một tượng đài kì vĩ, để lại dấu ấn không bao giờ phai mờ trong lòng người kinh phục và hâm mộ.
Cảm xúc chủ đạo của bài văn tế là cảm xúc bị tráng. Lời văn rắn rỏi, nhịp điệu mạnh mẽ, sục sôi, dồn dập, âm hưởng hào hùng. Nghệ thuật đối đã phát huy tối đa hiệu quả của nó... Tất cả hợp thành một thiên anh hùng ca hào hùng, phấn khích, tuyệt diệu, có giá trị muôn đời. Ngòi bút tả thực sắc sảo của tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động vì nước quên thân, với tư tưởng yêu nước cực kì lớn lao trong hành động tự nguyện đứng lên giết giặc cứu nước, bảo vệ giang sơn tổ tiên để lại của các nghĩa sĩ nông dân.
Gần ba chục nghĩa sĩ hi sinh trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cần sức. Cái chết bi tráng của họ khiến cho trời đất, con người, cây cỏ thảy đều thương tiếc:
Những lắm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng ; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
Người hi sinh vì non nước, đồng bào; hỏi làm sao không xúc động tới đồng bào, non nước ?!
Bằng lòng mến yêu, cảm phục chân thành, bằng nước mắt và tiếng khóc thống thiết của bản thân nói riêng và của nhân dân nói chung, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên tác phẩm có một không hai trong nền văn học của nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được đánh giá như một tấm bia, một cái mốc, một tượng đài vinh quang về người nông dân Nam Bộ yêu nước, muôn thuở sáng ngời.