I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Truyện ngắn Chí Phèo ra đời năm 1941 đã gây xôn xao dư luận trên văn đàn Việt Nam đương thời.

- Nhà văn Nam Cao tố cáo trước dư luận sự thống khổ của nông dân trong xã hội thực dân, phong kiến qua hình tượng nhân vật điển hình là Chí Phèo.

2. Thân bài:

* Phân tích nhân vật Chí Phèo:

+ Trước khi bị đẩy vào tù, Chỉ là một chàng trai hiền lành, lương thiện:

- Chỉ là đứa bé bị bỏ rơi từ lúc lọt lòng, cạnh chiếc lò gạch cũ giữa đồng.

- Lớn lên như cây cỏ, Chí không được ai thương yêu...

- Lúc trưởng thành, Chí làm canh điền cho nhà lí Kiến, một cường hào trong làng.

- Vợ ba lí Kiến thường bắt Chỉ hầu hạ... Chỉ thấy nhục. Chỉ ao ước được sống một cuộc sống bình thường, dù nghèo khổ.

- Chỉ vì những cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí bị đẩy vào cảnh lao tù.

+ Sau khi ra tù, Chí Phèo thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại :

- Bảy, tám năm trong tù, tâm hồn Chí đã bị nhuộm đen, hắn về làng với bộ mặt gớm ghiếc và tính cách lưu manh đáng sợ.

- Chí Phèo say rượu triền miên, luôn mồm chửi bới, gây sự đánh nhau, sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, kêu làng. Hắn đã thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

- Bá Kiến - kẻ gây ra bi kịch cho đời Chỉ nay lại tiếp tục huỷ hoại quãng đời còn lại của Chí Phèo, biến hắn thành “con dao trong tay đồ tể”, một công cụ khủng khiếp để triệt hạ các phe đảng đối lập trong làng.

- Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách Chí Phèo chứa đựng ý nghĩa tố cáo sự huỷ hoại ghê gớm của cường quyền đối với nhân cách của người lao động.

+ Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà không được làm người:

- Để quên đi số phận bất hạnh, Chí Phèo vùi đầu vào rượu, say triền miên và sống kiếp sống mù tối của thú vật.

- Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, ý thức về lượng trị sống dậy, Chí Phèo cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình. Hắn khao khát được yêu thương, được sống hoà đồng với mọi người... (Hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở tượng trưng cho tình thương, sự cứu rỗi...).

- Nam Cao đã tỏ ra là bậc thầy về miêu tả tâm lí nhân vật. Tài năng ấy thể hiện tập trung nhất ở đoạn cuối truyện. (Tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở, những khao khát ngày xưa sống dậy, nỗi lo lắng, chờ đợi, hi vọng và tuyệt vọng).

- Mâu thuẫn lên tới điểm đỉnh: Vì định kiến xã hội, Thị Nở buộc phải quay lưng với Chí Phèo. Cây cầu hi vọng đã gãy, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Hành động bạo liệt: giết kẻ thù rồi tự sát, lăn lộn trong vũng máu và kêu lên những tiếng kêu bi thảm: Tao muốn làm người lương thiện!

- Ý nghĩa của cái chết: Muốn tồn tại, Chí Phèo phải bán linh hồn cho quỷ dữ là lũ cường hào ác bá ở nông thôn. Nay ý thức làm người trở lại, Chí Phèo tha thiết được sống bình thường như bao người khác thì lại không thể thực hiện được ước mơ vì bị chối bỏ phũ phàng. Chi tiết Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch bỏ không là chi tiết rất đắt, chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Nếu cái xã hội thối nát này vẫn còn thì những bi kịch Chí Phèo cũng sẽ tiếp tục mãi không thôi.

3. Kết bài:

- Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đặt ra vấn đề nhân sinh rất lớn: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người?

- Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những nhà văn hiện đại hàng đầu của Việt Nam.

II. BÀI LÀM.

Ở phần đầu truyện ngắn Chí Phèo, tác giả kể về nguồn gốc của nhân vật chính. Đó là một đứa bé bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng cạnh chiếc lò gạch bỏ hoang giữa đồng không mông quạnh. Tuổi thơ của nó bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ, không người thân thích, không một tấc đất cắm dùi, không được ai ban cho chút tình thương. Đó là cuộc đời khốn khổ của kẻ cùng hơn cả dân cùng ở nông thôn trước Cách mạng. Chí Phèo phải chịu đựng mọi nỗi bất hạnh như bao nông dân nghèo cực khác, nhưng điều bất hạnh lớn nhất là hắn không được sống bình thường ngay cả trong cuộc đời nghèo khổ lương thiện của mình. Chí Phèo bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng tính người, bị biến thành con quỷ dữ và bị gạt bỏ không thương tiếc ra khỏi cộng đồng làng xã.

Chí vốn là một chàng trai nông dân hiền lành, chất phác. Chỉ vì cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí Phèo bị đẩy vào tù. Bảy, tám năm bị đày đoạ trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh chỉ lương thiện, ra tù hắn trở thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc và tâm hồn tội lỗi. Cái phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột, từ mặt mũi đến nhận cách đều biến tướng thành dị dạng, đáng sợ. Người ta thấy hắn say rượu triền miên và luôn mồm chửi bới tục tằn. Dân làng đều xa lánh, sợ hãi và ghê tởm hắn. Bọn thống trị trong làng mà tiêu biểu là bá Kiến - kẻ đã biến cuộc đời Chí thành bi kịch - giờ đây lại dùng thủ đoạn nham hiểm và sức mạnh đồng tiền để sai khiến và sử dụng Chí Phèo như con dao trong tay đồ tể, gây hoa cho bao người. Chí Phèo phản ứng gay gắt, quyết liệt với xã hội bằng thái độ ngang ngược, liều mạng, gây gổ, chửi bới... Lúc nào hắn cũng say, lúc nào cũng sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, kêu làng. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm. Hắn biết đâu, vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi say: hắn say thì hắn làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn làm. Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách này của nhân vật tố cáo sự huỷ hoại ghê gớm đối với phẩm chất, nhân cách của người lao động do xã hội cũ thối nát gây nên.

Chí Phèo là biểu hiện của nỗi đau khổ khôn cùng của con người sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi bất hạnh ấy, Chí Phèo uống rượu. Say rượu triền miên nên hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú hoang. Nhưng đến lúc tỉnh rượu thì hắn lại cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình. Trong một cơn say bí tỉ, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở, người đàn bà xấu xí, đần độn và quá lứa lỡ thì. Chút tình thương yêu mộc mạc, tự nhiên của Thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người hắn. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật.

Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy, lòng bâng khuâng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói, bàn tán của những người đàn bà đi chợ về... Bao âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay hầu như Chí Phèo không hề nghe thấy, bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say. Hôm nay, những âm thanh ấy vọng đến tại hắn, bỗng trở thành tiếng gọi thôi thúc của sự sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo, gợi dậy cái mơ ước chính đáng một thời: hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm... Đó cũng là mong muốn của bao nông dân nghèo trong xã hội cũ.

Trái tim tưởng chừng như chai đả vì thù hận của Chí Phèo đã dần dần sống dậy khiến cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Hắn khao khát được trở lại cuộc sống bình thường, được làm hoà với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại... Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp. Nhưng chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của hắn vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Định kiến xã hội (thông qua bà cô Thị Nở) không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng, hắn ôm mặt khóc rưng rức và lại tìm đến rượu. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: Tao muốn làm người lương thiện !... Ai cho tao lương thiện?... Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một cách... biết không!

Căm thù cao độ và không còn lối thoát, Chí Phèo đã giết bà Kiến rồi tự sát, lấy sự huỷ diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Nỗi đau của Chí Phèo là không được làm người, không được nếm trải những vui buồn sướng khổ của đời người. Chí Phèo chết trong niềm đau thương tột cùng bởi khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Câu hỏi cuối cùng trong những phút giây tỉnh táo nhất của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? chứa chất nỗi phẫn uất, đau đớn, làm day dứt lương tâm người đọc cho tới bây giờ.

Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề nhân sinh lớn: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời ? Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo đã đưa nhà văn lên vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.