I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao sau khi ra đời đã gây một tiếng vang lớn trên văn đàn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám 1945.
- Tác phẩm là dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh của các nhà văn tiến bộ thời bấy giờ.
- Hình tượng có giá trị tố cáo xã hội sâu sắc là Chí Phèo, một nông dân bị bần cùng hoá, lưu manh hoá.
- Giá trị hiện thực to lớn và giá trị nghệ thuật xuất sắc khiến truyện được đánh giá là một kiệt tác trong nền văn xuôi hiện đại.
2. Thân bài:
* Chân dung của Chí Phèo:
+ Gã lưu manh Chí Phèo say rượu:
- Được nhà văn khắc hoạ tài tình bằng ngôn ngữ kể và tả cực kì linh hoạt, sinh động: Hắn vừa đi vừa chửi... Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.
- Tác giả hé lộ về gốc gác của Chí Phèo: một đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc lọt lòng trong chiếc lò gạch cũ bỏ không giữa cánh đồng. Tuổi thơ bơ vơ đi ở hết cho nhà này đến nhà khác. Không nơi nương tựa, không tình thương yêu. (Dẫn chứng).
+ Con quỷ dữ của làng Vũ Đại:
- Vì những cơn ghen vô cớ của lí Kiến mà Chí bị bắt đi tù đến bảy tám năm. Ra tù, hắn biến dạng cả về hình thức lẫn tính cách. Hắn đã thành gã côn đồ có cái tên đáng sợ là Chí Phèo. Hắn phá phách, đâm chém, rạch mặt ăn vạ trong những cơn say triển miên. Dân làng ghê sợ và căm ghét, gạt hắn ra khỏi cộng đồng. (Dẫn chứng).
+ Chí Phèo lúc lương tâm thức tỉnh:
- Được Thị Nở săn sóc, yêu thương, phần người trong Chí Phèo hồi sinh. Hắn thèm được làm hoà với mọi người, được sống một cuộc sống bình thường như bao nông dân khác. Niềm hi vọng làm thay đổi hẳn tính cách của Chí Phèo. (Dẫn chứng).
- Bị từ chối, hắt hủi phũ phàng, từ hi vọng Chí Phèo chuyển sang tuyệt vọng. Hắn tìm đến bả Kiến để trả thù kẻ đã phá nát cuộc đời và tước đoạt quyền làm người của mình. Chí Phèo đòi được làm người lương thiện. Những giây phút trước khi chết là những giây phút tỉnh táo, sáng suốt nhất trong cuộc đời bất hạnh của Chí Phèo.
3. Kết bài:
- Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao tố cáo xã hội vạn ác đương thời chà đạp lên nhân phẩm, tước đoạt quyền làm người.
- Nhà văn gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh: hãy cứu lấy con người. Triết lí nhân sinh sâu sắc được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật độc đáo đã tạo nên giá trị to lớn của tác phẩm và tôn vinh tên tuổi Nam Cao.
II. BÀI LÀM
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao ra đời đã gây một tiếng vang lớn trên văn đàn Việt Nam thời bấy giờ. Nó là một dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho thắng lợi của quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh của các nhà văn tiến bộ. Truyện ngắn xuất sắc này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong đội ngũ các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945.
Qua nhiều truyện ngắn của mình, Nam Cao đã tố cáo trước dư luận tình trạng thống khổ của nông dân dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến. Họ là nạn nhân của bọn cường hào áp bức và tham nhũng. Bạo lực đen tối, sưu cao thuế nặng cùng nhiều hủ tục khác ở nông thôn đã dồn đẩy họ vào bước đường cùng, thậm chí tước đoạt quyền sống, quyền làm người của họ. Hình tượng có giá trị tố cáo xã hội sâu sắc là nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên - một nông dân lương thiện bị bần cùng hoá, lưu manh hoá. Chính vì có ý nghĩa hiện thực to lớn và giá trị nghệ thuật xuất sắc nên truyện ngắn này được đánh giá là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã khắc hoạ thật sinh động và tài tình chân dung có một không hai của gã Chí Phèo say rượu: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì ? Trời có của riêng nhà nào ? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả những chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra !”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật ! Tức chết đi được mất ! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không ? Thế thì có khổ hắn không ? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này ? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết ! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.
Quả là một nguồn gốc xuất thân đầy bí ẩn. Ấy thế nhưng nhân thân Chí Phèo thì mọi người đều rõ. Hắn chính là đứa bé bị bỏ rơi từ lúc lọt lòng, trong chiếc lò gạch bỏ hoang giữa đồng không mông quạnh. Một anh đi thả ống lươn lúc sáng sớm đã mang hắn về làng. Tuổi thơ hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Không thân thích, không tấc đất cắm dùi, hắn lớn lên như thú hoang, như cỏ dại, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Đó là cuộc đời khốn khổ của kẻ cùng hơn cả dân cùng ở nông thôn ngày trước. Chí Phèo phải chịu đựng mọi nỗi bất hạnh như bao nông dân nghèo cực khác, nhưng điều bất hạnh lớn nhất của hắn là không được sống bình thường ngay trong cuộc đời nghèo khổ mà lương thiện của mình. Anh thanh niên có cái tên hiền lành, dễ thương là Chí đã bị xã hội vạn ác cướp đi cả bộ mặt người cùng tính người, bị biến thành gã lưu manh hung tợn Chí Phèo nên đã bị dân làng gạt ra khỏi cộng đồng một cách không thương tiếc.
Chỉ vốn là anh trai cày cục mịch, chất phác, làm tá điền cho nhà lí Kiến. Chỉ vì cơn ghen bóng ghen gió của tên cường hào nham hiểm này mà Chỉ bị bắt đi tù, Bảy, tám năm trong tù, sống chung với tầng lớp cặn bã của xã hội, tâm hồn Chí đã bị nhuộm đen. Cái phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi đến tính cách của hắn đã trở nên quái dị, đáng sợ. Bọn thống trị trong làng mà tiêu biểu là bá Kiến - kẻ đã gây ra bi kịch của cuộc đời Chí Phèo - giờ đây lại dùng thủ đoạn nham hiểm và sức mạnh của đồng tiền để mua chuộc, sai khiến, sử dụng Chí Phèo như con dao trong tay đồ tể, gây hoạ cho bao người. Chí Phèo phản ứng gay gắt, quyết liệt với xã hội bằng thái độ ngang ngược, liều lĩnh. Lúc nào hắn cũng say, cũng giận dữ, sẵn sàng dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ, kêu làng... Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách của Chí Phèo tố cáo sự huỷ hoại ghê gớm của xã hội thối nát đối với phẩm chất, nhân cách của người lao động.
Chí Phèo là hiện thân của nỗi đau khổ tột cùng: sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi bất hạnh ấy, Chí Phèo dùng rượu để giải khuây: Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, doạ nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ của làng Vũ Đại, để tác quải cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi hắn say; hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.
Bởi say rượu triền miên nên hầu như Chí Phèo bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú vật. Trong một cơn say, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ, nghèo đói, quá lửa lỡ thì và dòng giống có má hủi. Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nở đã khơi bùng lên ngọn lửa lương tri còn leo lét trong tâm thức âm u của Chí Phèo, thức tỉnh bản chất lượng thiện vốn có trong hắn. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng là bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật: Khi Chí Phèo mở mắt thì trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say. Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!
Những âm thanh quen thuộc ấy vọng đến tai Chí Phèo bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống và lay động sâu xa tâm hồn hắn: Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm... Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đoạ cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.
Trái tim tưởng như chai đá của Chí Phèo dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Hắn khao khát được sống cuộc sống bình thường, được làm hoà với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại. Chí Phèo háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp. Nhưng chút tình yêu thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của hắn đã bị một trở lực ghê gớm ngăn cản. Định kiến xã hội biểu hiện qua sự cấm đoán gay gắt của bà cô Thị Nở không cho phép Chí Phèo đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Một lần nữa Chí Phèo bị ruồng rẫy, hắt hủi phũ phàng. Từ đỉnh cao hi vọng, hắn rơi vào vực thẳm tuyệt vọng. Hắn ôm mặt khóc rưng rức vì cảm nhận sâu sắc số phận bất hạnh và bị kịch không lối thoát của mình để rồi lại tìm đến rượu. Đau đớn thay tiếng kêu tuyệt vọng của Chí Phèo khi vác dao đến nhà bá Kiến để hỏi tội lão: Tao muốn làm người lương thiện! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa! Biết không? Chỉ có một cách... biết không? Căm thù cao độ và không còn lối thoát, Chí Phèo đã giết chết bả Kiến rồi tự sát, lấy sự huỷ diệt thân mình để giải quyết bi kịch của số phận. Hành động quyết liệt ấy cho thấy một khi phần người đã sống dậy thì Chí Phèo không chấp nhận trở lại kiếp thú hoang.
Nỗi thống khổ của Chí Phèo là bị tước đoạt quyền làm người, không được nếm trải đủ những buồn vui, sướng khổ của kiếp người. Chí Phèo chết trong nỗi đau đớn tột cùng bởi khao khát mãnh liệt được làm người lương thiện đã bị định kiến xã hội dập tắt một cách tàn nhẫn. Câu hỏi cuối cùng trong những giây phút tỉnh táo cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo chất chứa khao khát, đớn đau, phẫn uất và tuyệt vọng. Nó có giá trị tố cáo rất lớn cái xã hội thực dân phong kiến vô nhân đạo và có sức thức tỉnh, lay động mạnh mẽ, làm cho tâm hồn người đọc day dứt khôn nguôi. Đó chính là giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm.
Qua hình tượng nhân vật bất hủ Chí Phèo, Nam Cao muốn đề cập tới một vấn đề quan trọng là : Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội phi nhân tính đương thời? Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo đã khẳng định Nam Cao là cây bút bậc thầy về truyện ngắn và tôn vinh tác giả lên vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.