I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ nổi tiếng của nước ta thế kỉ XVIII, được tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm”.
- Cuộc đời bà gặp nhiều sóng gió nên bà thường có tâm trạng cô đơn. Bài thơ Kể nỗi lòng (Tự tình II) được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt để ghi lại tâm trạng ấy.
2. Thân bài:
* Tâm trạng của nữ sĩ:
+ Hai câu đề:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
- Thời điểm: là Đêm khuya thanh vắng, dễ gợi buồn, nhất là đối với những người đa cảm như nữ sĩ.
- Âm thanh: văng vẳng trống canh dồn làm nổi bật vẻ tĩnh lặng của đêm. (Nghệ thuật lấy động tả tĩnh).
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ tài tình: tính từ Trợ đặt ở đầu câu, cách gọi hồng nhan là cái hồng nhan thể hiện tâm trạng buồn bã, chán chường của nữ sĩ.
+ Hai câu thực:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
- Nữ sĩ mượn rượu để tạm quên thói đời đen bạc nhưng không sao quên được. Say lại tỉnh, nỗi buồn cùng chồng chất, nặng trĩu trong lòng.
- Hình ảnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn là một ẩn dụ nghệ thuật, thể hiện sự trông đợi mỏi mòn của nữ sĩ mà những khát khao, ước mơ hạnh phúc mãi chưa thành hiện thực.
+ Hai câu luận:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
- Bản chất cứng cỏi, khát khao sống mãnh liệt khiến nữ sĩ nhận thấy dường như những vật vô tri vô giác như rêu, như đá cũng muốn khẳng định mình trong cuộc đời.
- Các động từ mạnh như hiên ngang, Đâm toạc đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh sức sống bất diệt của thiên nhiên và tâm trạng phức tạp của nữ sĩ trước cảnh mình, cảnh đời. Lời tự động viên ẩn trong câu thơ đó.
+ Hai câu kết:
Ngàn nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tỉ con con!
- Vừa là tâm trạng chán ngán, bực bội vì sự đối lập giữa thiên nhiên vô hạn và kiếp người hữu hạn, vừa là khát khao được giao hoà, chia sẻ với đời của nữ sĩ.
- Thể hiện rất đúng tính cách Xuân Hương: buồn bã, cô đơn nhưng không tuyệt vọng.
3. Kết bài:
- Bài thơ Kể nỗi lòng mang đậm dấu ấn phong cách Xuân Hương
- Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa là tấm lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. Dù buồn đến đâu thì nữ sĩ vẫn thiết tha gắn bó với con người và cuộc đời.
II. BÀI LÀM
Hồ Xuân Hương, nữ sĩ nổi tiếng thế kỉ XVIII đã được nhà thơ Xuân Diệu tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm”. Theo giai thoại lưu truyền trong dân gian thì bà là người đa tài, đa tình, tính cách phóng khoáng và giao thiệp rộng, có rất nhiều bạn văn chương. Tuy thế, đường tình duyên của nữ sĩ lại vô cùng lận đận, mấy lần lấy chồng đều không toại nguyện, vì thế mà bà luôn sống trong tâm trạng cô đơn. Bài thơ Kể nỗi lòng (Tự tình II) có lẽ được sáng tác trong hoàn cảnh ấy.
Trong một ngày thì lúc hoàng hôn hay đêm khuya thanh vắng thường dễ gợi buồn nhất. Với những người đã cảm như Xuân Hương, đây là thời điểm mình sống thực với lòng mình và chắc là tâm trạng của bà sau bao sóng gió cuộc đời cũng chẳng khác mấy tâm trạng Thuý Kiều khi một mình một bóng trước ngọn đèn khuya: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa! Những cơn sóng cảm xúc đang cuộn xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư, trăn trở, thao thức thâu đêm. Tiếng trống cầm canh lâu lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Bước chân của đêm tối mới nặng nề, chậm chạp làm sao ? Chậm chạp nhưng nó vẫn đi, còn tâm trạng buồn thương của con người trong đêm khuya thì lắng đọng và chốc chốc lại như dồn như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng càng nặng trĩu. Nỗi đau đời âm ỉ, dai dẳng thiêu đốt tâm can nữ sĩ bấy lâu nay bật thất thành lời chua chát, đắng cay. Hồng nhan là gương mặt đẹp, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung và những người con gái đẹp nói riêng. Nhưng lại gọi với ý mỉa mai là cái hồng nhan thì nữ sĩ đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác. Chao ôi! Biết bao là xót xa, hờn tủi trong cách gọi bất bình thường ấy! Lại còn trơ ra đó với nước non, có nghĩa là đã chai lì mọi cảm giác, cảm xúc chứ không phải là trơ trọi trước cảnh nước non dào dạt sức sống, sức yêu. Đó là tình cảnh và tâm trạng bị đát của nữ sĩ ở giờ khắc đặc biệt này.
Tưởng như nỗi bất hạnh đã khiến tâm hồn hoá thành gỗ đá nhưng không phải. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành say cho quên vậy:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Muốn mượn chén rượu thơm để say cho quên hết mọi đau khổ, bẽ bàng, lỡ lầm, dối trá... nhưng khổ nỗi không sao quên được. Hết say lại tỉnh mà bao hững hờ, dối trá của người đời vẫn sờ sờ ra đó và nỗi bẽ bàng, đau khổ của mình thì cũng cứ còn nguyên. Ước mong có được một mảy may bù đắp, một chút an ủi mà nào có được! Vầng trăng bóng xế giống như đời mình đã ngả chiều. Chờ đợi mỏi mòn mà ước mong cũng như vầng trăng kia cứ khuyết chưa tròn. Vậy thì biết đến bao giờ trăng mới tròn, hỡi trời?!
Tỉnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình không đến nỗi tuyệt vọng. Niềm tin của nữ sĩ vẫn còn, trước hết là tin ở lòng mình, sức mình. Lời dạy của trời đất sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở ngay trong rêu, trong đá:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Rêu yếu ớt là thế mà từng đám, từng đám vẫn tung sức sống viên ngang mặt đất đón ánh mặt trời. Đá im lìm là vậy mà hòn nọ tảng kia như đua nhau đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Cách đặt câu đảo ngược đưa tính từ lên trước đã nhấn mạnh sức sống bất diệt của thiên nhiên. Mình là con người nên đâu có thể dễ dàng biến thành gỗ đã được ?!
Con người cô độc, bất hạnh trong thời điểm đó, không gian đó dường như chợt bừng tỉnh, muốn làm theo yêu theo đá, xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì ngăn trở, ràng buộc, giam hãm, huỷ hoại thân phận mình, cuộc đời mình. Khổ nỗi, thực tế xã hội với bao dối trá, lạnh nhạt, chưa kể áp bức, bất công... vẫn nhởn nhơ còn đó. Mà trái tim luôn rạo rực cảm xúc của nữ sĩ đâu có chịu im tiếng. Nó có nhu cầu cấp thiết là được bày tỏ và chia sẻ:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Ngày tháng cứ tuần tự trôi qua. Xuân đi xuân lại lại theo nhịp tuần hoàn của đất trời, nhưng trước đôi mắt đầy tâm trạng của nữ sĩ thì nó lại như một sự cố tình trêu ngươi, vì mùa xuân của đời người chỉ có qua đi mà không bao giờ trở lại. Vậy thì có đáng buồn, đáng chán hay không ?! Ngẫm đến mình thì tuổi xuân trôi qua đã lâu, tình thì chỉ còn một mảnh. Cụ thể hoá tình yêu đến như thế thì quả là nữ sĩ không chỉ chán chường mà còn ngao ngán đến cực độ. Tuy nhiên vẫn chưa phải là tuyệt vọng. Dẫu tình yêu, tình đời chỉ còn một mảnh tỉ con con nhưng nữ sĩ vẫn muốn tiếp tục đem san sẻ với mong ước chân thành là để cho nhân tình thế thái đỡ xanh như lá, bạc như vôi. Đọc kĩ câu thơ, ta nghe như nỗi hờn giận, đau xót thấm đến tận chân tơ kẽ tóc, đến từng tế bào những nữ sĩ vẫn không nguôi hi vọng.
Bài thơ kể nỗi lòng in đậm dấu ấn cá tính và phong cách thơ Xuân Hương. Đúng là bài thơ trĩu nặng một nỗi buồn nhưng không hề bị luy. Cốt cách cứng cỏi, tâm hồn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vượt qua bao bất hạnh của cuộc đời. Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa là tiếng lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở ấy. Dù buồn đến đâu thì nữ sĩ vẫn đắm say, thiết tha với cuộc sống. Đó là điều cốt lõi rất đáng trân trọng của Hồ Xuân Hương - “Bà chúa thơ Nôm”.