I. DÀN Ý

1. Mở bài:

* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

- Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

- 1963, ông nhập ngũ, trở thành cán bộ tuyên huấn trong quân đội.

- Sáng tác thơ về đề tài người lính, về đề tài nông thôn... với nhiều bài đặc sắc.

- Hiện nay, ông là Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

- Bài thơ Sang thu (1977) in trên báo Văn nghệ, thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của tác giả trước những chuyển biến tinh tế của trời đất lúc thu sang.

2. Thân bài:

* Bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp lúc giao mùa:

+ Khổ thứ nhất:

- Sự cảm nhận mùa thu đã sang bắt đầu bằng khứu giác: Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se. Gió se: heo may se lạnh báo hiệu thu sang. Hương ổi: hương vị quê hương thân thuộc gắn bó với tuổi ấu thơ.

- Bằng thị giác và cảm giác:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Câu thơ thể hiện tâm trạng bâng khuâng mong chờ mùa thu của thi sĩ.

+ Khổ thứ hai:

- Không gian mở rộng từ gần đến xa; từ thấp lên cao: Sông được lúc dềnh dàng (thong thả trôi xuôi) vì đã qua mùa lũ. Chim bắt đầu vội vã (vì cái se lạnh của gió thu). Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu: Hai câu tuyệt bút tả cảnh ngụ tình, thể hiện tâm trạng bâng khuâng xao xuyến trước những chuyển biến kì diệu của thiên nhiên lúc giao mùa hạ - thu. Vừa luyến tiếc mùa hạ nồng nàn, vừa mong ước mùa thu êm dịu.

+ Khổ thứ ba:

- Mạch cảm xúc tiếp tục dâng cao, tuy vậy đã có bề sâu của sự đối sánh và chiêm nghiệm: Vẫn còn bao nhiêu nắng, Đã vơi dần cơn mưa, vừa tả thực thời tiết lúc này vừa có ý hàm ẩn về cuộc đời của mỗi con người. Sấm cũng bớt bất ngờ, Trên hàng cây đứng tuổi: Mọi tác động của khách quan đối với người đứng tuổi cũng đã khác xưa. Qua thử thách, bản lĩnh con người cứng cỏi hơn, vững vàng hơn.

- Tầng sâu chính là ý nghĩa triết lí nhân sinh.

3. Kết bài:

- Bằng sự cảm nhận tinh nhạy, bằng ngôn ngữ thơ ca giản dị và hàm súc, nhà thơ Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu tuyệt mĩ.

- Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã đóng góp thêm một nét thu độc đáo vào những bài thơ mùa thu hay và đẹp trong thơ ca tiếng Việt.

II. BÀI LÀM

Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng - Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hoá, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoá III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu.

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Từ cuối mùa hạ sang đầu mùa thu, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Những biến chuyển này đã được Hữu Thỉnh cảm nhận bằng sự rung động của trái tim thi sĩ và thể hiện qua những hình ảnh thơ mộng, giàu sức biểu cảm.

Ở khổ thơ đầu, dấu hiệu của mùa thu không phải là Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu như trong thơ cổ; cũng không phải là Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống, lệ ngàn hàng như trong thơ Xuân Diệu cách đây hai phần ba thế kỉ. Vốn hiểu biết nhiều về nông thôn nên Hữu Thỉnh đã đưa vào bài thơ những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc mà vô cùng quen thuộc của quê hương:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Đây là khung cảnh một sáng chớm thu ở làng quê Bắc Bộ. Trước hết, nhà thơ bất chợt nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió mang hương ổi chín. Gió se là làn gió thoáng chút hơi lạnh, còn gọi là heo may. Hương ổi gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ.

Tiếp theo là hình ảnh màn sương giăng trước ngõ. Lập thu, tiết trời mát mẻ. Sáng sớm và chiều tối thường có sương. Sương cũng là một trong những dấu hiệu của mùa thu. Sương chùng chình qua ngõ như để nhắc nhở lòng người đang mong đợi rằng mùa thu đã tới. Nhà thơ ngỡ ngàng và sung sướng thầm thốt lên: Hình như thu đã về.

Hai từ bỗng và hình như làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu - nguồn cảm hứng bất tận của thơ, ca, nhạc, hoạ.

Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người mình, tâm hồn mình. Bắt đầu là khứu giác: Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se. Tiếp theo là thị giác mở rộng để tiếp nhận những tín hiệu báo thu sang. Từ làn sương vấn vít trong những rặng cây, luỹ tre dọc theo lối ngõ cho đến dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây nhẹ nhàng, thanh thản trôi xuôi. Trên nền trời mùa thu trong xanh, những cánh chim dường như cũng vội vã hơn.

Cảm giác giao mùa được nhà thơ diễn tả bằng một hình ảnh bất ngờ đầy thi vị: Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu. Đây là hình ảnh đặc sắc miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn những mùa thu đã tới. Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn nguyên nhưng nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng, êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào hồn từ lúc nào chẳng rõ.

Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt oi nồng, chói chang và những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng chình, hình như, dềnh dàng, vắt nửa mình... Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống. Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay những nét riêng của thời điểm giao mùa hạ - thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối bài:

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời; hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải.

Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn mưa giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ - thu ở nông thôn đồng bằng miền Bắc. Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã góp thêm một nét thu mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam.