I. DÀN Ý

1. Mở bài:

* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

- Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế giới thế kỉ XIX.

- Ông sáng tác một số lượng tác phẩm khá lớn, trong đó có những tiểu thuyết và truyện ngắn xuất sắc... với nội dung phản ánh tình hình lịch sử và xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

- Bài văn Bố của Xi-mông trích từ truyện ngắn cùng tên.

- Qua đoạn trích này, nhà văn nhắc nhở chúng ta về lòng yêu thương bè bạn, mở rộng ra là lòng yêu thương con người, sự thông cảm với những nỗi đau hoặc lỡ lầm của người khác.

2. Thân bài:

* Tóm tắt nội dung:

Chị Blăng-sốt bị một gã đàn ông lừa dối nên sinh ra một đứa con không có cha. Bé Xi-mông luôn bị bạn bè trêu chọc là con hoang. Tủi thân, bé định nhảy xuống sông tự vẫn. Bác thợ rèn Phi-líp rất thương bé, vui lòng nhận làm bố nên đã đến cầu hôn chị Blăng-sốt. Từ đó, Xi-mông đã có một người bố thật sự luôn bênh vực cậu.

* Phân tích:

+ Nỗi buồn tủi và tuyệt vọng của cậu bé Xi-mông:

- Xi-mông là cậu bé gầy gò, xanh xao, nhút nhát...

- Em thường bị bạn bè trêu chọc, nhục mạ là con hoang.

- Điều đó làm cho Xi-mông buồn tủi, tuyệt vọng, muốn chết cho xong.

- Nghĩ đến người mẹ thân yêu, chứ không dám liều mạng.

- Nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng Xi-mông đã lên đến tột đỉnh. Chú bé giãi bày điều đó với bác thợ rèn Phi-líp.

* Lòng thương xót của bác Phi-líp đối với cậu bé Xi-mông:

- Gặp Xi-mông trong cơn tuyệt vọng, bác chân thành an ủi cậu bé.

- Bác khẳng định là muốn trở thành bố của Xi-mông.

- Để chấm dứt nỗi khổ tâm của Xi-mông, bác đã đến gặp mẹ cậu bé để cầu hôn. Mọi suy nghĩ, hành động của bác đều xuất phát từ tình nhân ái và độ lượng.

3. Kết bài:

- Kết thúc có hậu của câu chuyện làm cho người đọc cảm động.

- Câu chuyện thể hiện lòng tin mãnh liệt của tác giả vào con người và cuộc sống.

II. BÀI LÀM

Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế giới. Tuy chỉ sống đến hơn bốn mươi tuổi nhưng ông đã sáng tác một khối lượng tác phẩm lớn gồm một số tiểu thuyết như Một cuộc đời (1883), Ông bạn đẹp (1885) và hơn ba trăm truyện ngắn. Các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

Bài văn Bố của Xi-mông trích từ truyện ngắn cùng tên. Nội dung kể về chị Blăng-sốt bị một gã đàn ông lừa dối, sinh ra bé Xi-mông. Khi Xi-mông đi học, em bị đám học trò chế giễu là đứa con hoang không có bố. Xi-mông buồn tủi, lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong. Rất may, em gặp bác thợ rèn Phi-líp. Bác dẫn em về nhà với mẹ. Em muốn bác Phi-líp là bố và bác đã nhận lời. Nhưng bọn trẻ vẫn trêu chọc vì bác Phi-líp không phải là chồng của mẹ Xi-mông thì làm sao là bố của Xi-mông được?! Sau đoạn trích này, tác giả kể rằng vì thương Xi-mông mà bác Phi-líp đã cầu hôn với cô Blăng-sốt. Từ đó, Xi-mông có một người bố thật sự, chỗ dựa vững chắc của em trong cuộc đời.

Nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng đã thể hiện rất sinh động diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt, Phi-líp. Qua đó, ông kín đáo nhắc nhở chúng ta về tình yêu thương bạn bè, mở rộng ra là lòng thương yêu con người, biết thông cảm và chia sẻ trước những nỗi bất hạnh hoặc lầm lỡ của người khác.

Bài văn chia làm 4 phần:

Phần một: Từ đầu... đến mà chỉ khóc hoài: Nỗi buồn tủi và tuyệt vọng của cậu bé Xi-mông.

Phần hai: Từ Bỗng một bàn tay... đến một ông bố: Xi-mông gặp bác Phi-líp.

Phần ba: Từ Hai bác cháu... đến đi rất nhanh: Bác Phi-líp đưa Xi-mông về nhà.

Phần bốn: Còn lại: Ngày hôm sau ở trường.

Trong đoạn trích này có ba nhân vật chính là cậu bé Xi-mông, mẹ em là chị Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra còn có những nhân vật phụ là các bạn của Xi-mông và thầy giáo. Chúng ta sẽ phân tích nội dung bài văn theo từng nhân vật chính.

Khi cất tiếng khóc chào đời, bé Xi-mông đã phải sống trong cảnh khổ sở, thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần nhưng lớn lên, nỗi đau không có bố mới thực sự dằn vặt cậu bé.

Trong bài này không có chi tiết nào nói đến hình dáng của Xi-mông, nhưng ở một đoạn khác của truyện, tác giả cho biết: Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại. Vẻ ngoài ấy phần nào thể hiện hoàn cảnh sống và tính cách của một đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc.

Xi-mông là đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau không có bố lúc nào cũng day dứt làm cho trái tim nhỏ bé của em rớm máu. Nỗi đau đớn, tủi nhục thể hiện qua ý nghĩ và hành động của Xi-mông. Em lang thang ra bờ sông, định nhảy xuống sông cho chết đuối vì nỗi bất hạnh không có bố khiến em không thiết sống nữa. May mà cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ xung quanh khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ nên không dám làm điều dại dột. Xi-mông khóc cho vơi bớt nỗi tủi hờn: Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được, vì những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang choán lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài.

Xi-mông đang trong tâm trạng chới với thì gặp bác Phi-líp. Nghe bác hỏi, em thổn thức không nói nên lời: Em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào: Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu... không có bố... không có bố.

Bác Phi-líp dẫn em về nhà. Gặp mẹ, em vừa mừng, vừa tủi: Xi-mông nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc và bảo: Không, mẹ ơi, con đã muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con không có bố.

Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông vốn là một cô gái nhẹ dạ, cả tin nên đã bị phụ tình, khiến cho con trai mình không có bố. Thực ra, chị là người thật thà và từng là một trong những cô gái đẹp nhất vùng. Bản chất của chị thể hiện phần nào qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ. Điều đó nói lên rằng chị tuy nghèo nhưng sống khá nề nếp.

Nhìn thấy chị, bác công nhân bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối.

Nghe con kể là thường bị các bạn trêu chọc vì không có bố, đôi má thiếu phụ đỏ bừng và tê tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Khi nghe con hỏi Phi-lip: Bác có muốn làm bố cháu không? thì chị Blăng-sốt hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường, hai tay ôm ngực.

Bác Phi-lip là một người thợ rèn cao lớn, râu rậm, tóc đen và quăn, vẻ mặt nhân hậu. Ngay từ lúc mới gặp Xi-mông, bác đã rất thương em. Bác đã đem đến cho cậu bé niềm hạnh phúc to lớn và bất ngờ. Bác gặp Xi-mông đúng lúc em đang tuyệt vọng, định nhảy xuống sông. Bác Phi-lip đã đem lại cho em niềm hi vọng bằng một câu khẳng định là muốn trở thành bố của em. Điều đó an ủi Xi-mông rất nhiều. Bác Phi-lip tốt bụng đã cứu Xi-mông ra khỏi tay thần chết.

Nhưng Xi-mông vẫn chưa được yên ổn học hành. Bọn trẻ vẫn tiếp tục chọc ghẹo làm cho em đau khổ vì “bố” Phi-lip của em không phải là bố hẳn hoi, tức là không phải chồng của mẹ em.

Ở đoạn tiếp theo, tác giả kể là bác Phi-líp vì thương Xi-mông nên đã ngỏ lời cầu hôn với mẹ cậu bé. Bác Phi-lip đến nhà gặp chị Blăng-sốt, mong chị chấp thuận để bác trở thành ông bố hẳn hoi của Xi-mông. Từ đó, bé Xi-mông không bị đứa trẻ nào bắt nạt nữa. Bác thợ rèn nhân hậu đã giải thoát Xi-mông khỏi sự tủi hổ, đem lại niềm vui sướng và tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-lip là một việc làm nhân đạo cao cả.

Không chỉ đem lại niềm vui cho bé Xi-mông, bác Phi-lip còn mang lại hạnh phúc cho chị Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông. Trong lời yêu cầu được làm một người bố hẳn hoi của Xi-mông, bác Phi-lip đã thể hiện thái độ trân trọng đối với chị Blăng-sốt. Chỉ qua những cuộc chuyện trò ngắn ngủi, bác Phi-lip đã nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của chị. Tuy rằng chị đã một lần lầm lỡ, dẫn đến hậu quả là cả hai mẹ con đều phải chịu đau buồn, nhưng chị chỉ đáng thương mà không đáng trách, vì bản tính không phải là người phóng túng, lẳng lơ. Bác thừa nhận chị là một phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.

Để có thể đem lại hạnh phúc cho hai mẹ con cậu bé Xi-mông, bác Phi-lip đã phải cố gắng rất nhiều để vượt qua những thành kiến cổ lỗ của người đời. Bác Phi-lip nhận thêm sự ủng hộ, cổ vũ nhiệt tình từ những người thợ rèn tốt bụng để có thêm sức mạnh chống lại những quan niệm hẹp hòi về giá trị của người phụ nữ. Bác đã trở thành đại diện của sự công bằng và lòng nhân ái. Bác Phi-lip đã đem lại cho chị Blăng-sốt cơ hội làm một người vợ xứng đáng của một người đàn ông tử tế. Hơn thế, bác đã khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó là một hạnh phúc bất ngờ và to lớn đối với Blăng-sốt.

Hành động đầy tình nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp khiến cho câu chuyện kết thúc có hậu. Bác đã làm cho những người đau khổ được hạnh phúc và đem lại cho người đọc lòng tin vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính là mục đích cao cả mà nhà văn G. Mô-pa-xăng đặt ra trong tác phẩm này.