I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 trong một gia đình thợ thủ công ở làng Nghĩa Đô (Bưởi), ngoại thành Hà Nội.

- Thời trai trẻ, ông phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau.

- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông tham gia làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Sau hơn bảy mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau. Điểm nổi bật ở Tô Hoài là ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước.

- Năm 1996, Tô Hoài được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), được tặng giải Nhất - Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi thời phong kiến thực dân và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.

2. Thân bài:

* Tóm tắt nội dung:

- Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ. Vì món nợ không trả được của cha mẹ mà Mi bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ vì dám đánh A sử, con trai thống lí nên bị bắt làm đầy tớ để trừ tiền phạt vạ. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa rồi thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị và A Phủ trở thành du kích bảo vệ khu giải phóng.

* Nhân vật Mị:

- Mị là một cô gái xinh đẹp, khoẻ mạnh, được nhiều trai bản yêu mến. Vì món nợ của cha mẹ vay thống lí từ ngày cưới, Mị phải đem thân làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn. Tác giả phản ánh cuộc đời của Mị với hai nét chính: số phận nô lệ cực nhục, khổ đau và sức sống tiềm tàng dẫn tới sức phản kháng mãnh liệt, táo bạo.

+ Số phận nô lệ cực nhục, khổ đau:

- Là con dâu gạt nợ, Mị đã bị đem cúng “trình ma” nhà thống lí Pá Tra nên không thể chạy đâu cho thoát.

- Phải chung sống với kẻ mà mình căm ghét là nỗi đau khổ ghê gớm nhất của Mị. Mị đã phản kháng bằng cách định ăn lá ngón để tự tử. Trước khi chết, Mị về lạy cha. Lời kêu xin thống thiết của người cha già yếu khiến Mị đành phải cố nuốt nỗi tủi nhục, quay trở lại nhà thống lí.

- Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con tên thống lí làm cho Mị ngập chìm trong đau khổ triền miên. Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp Mị xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời cô.

- Mị không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với nỗi khổ, vì cho rằng mình sống mà như đã chết. Cái ác của bọn thống trị là đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Bị tê liệt sức phản kháng, Mị chỉ còn biết thở dài buông xuôi phó mặc cho số phận.

+ Sức sống tiềm tàng dẫn tới hành động phản kháng mãnh liệt, táo bạo.

- Diễn biến tâm lí của Mị được tác giả miêu tả và thể hiện tinh tế, sâu sắc. Tâm trạng Mị pha trộn nhiều cảm xúc trong các tình huống: đệm xuân uống rượu, nghe tiếng sáo gọi bạn tình, niềm khao khát sóng trở lại ; khi bị A Sử trói đứng vào cột không cho đi chơi ; khi chứng kiến tình cảnh của A Phủ cho tới khi cầm dao cắt dây trói cứu A Phủ và quyết định cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài...

- Trong đêm xuân, Mị uống rượu và lâng lâng say, rồi tâm hồn cô từ từ tỉnh táo lại sau bao tháng ngày câm lặng, mụ mị vì sự đoạ đày. Men rượu và những âm thanh náo nhiệt của ngày Tết khiến Mị thoát khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh bấy lâu nay. Dấu hiệu đầu tiên là cô nhớ lại những kỉ niệm đẹp ngày trước. Niềm khao khát sống đã trỗi dậy mạnh mẽ.

- Tiếng sáo gọi bạn tình là biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do mà bấy lâu nay dường như Mị đã quên, nay đang sống lại trong tâm hồn Mị.

- Những ý nghĩ sôi sục trong tâm trí Mị đã biến thành hành động, đầu tiên là một hành động có ý nghĩa thức tỉnh, thúc đẩy các hành động tiếp theo: Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.

- Nhưng đúng lúc lòng ham sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng nhất: A Sử bước vào, thản nhiên, lạnh lùng trải đứng Mị vào cột bếp. Suốt đêm, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo lạnh lùng. Hai cảnh tượng của ước mơ và thực tại hiện ra qua hai âm thanh trái ngược: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khốc. Thực tại phũ phàng đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng.

- Điều kì diệu là dẫu trong hoàn cảnh cùng cực nhất thì những thế lực tàn bạo cũng không thể huỷ diệt được sức sống của con người, giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro than, có ngày sẽ bùng cháy dữ dội. Ngày ấy đã đến với Mị. Trước cảnh A Phủ bị trói chờ chết, Mị không cầm lòng được. Mị động lòng thương, thương người, thương thân. Cảm thương số phận A Phủ, lòng căm thù cha con tên thống lí độc ác bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.

- Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần, đoạ đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc tự giải thoát. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Hai con người cùng cảnh ngộ từ trong cái chết đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.

* Nhân vật A Phủ:

- A Phủ sớm mồ côi cha mẹ. Lúc mới mười tuổi, A Phủ không thích ở dưới cánh đồng thấp đã trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai khoẻ mạnh, can đảm. A Phủ rất nghèo, không có ruộng nương, chỉ đi làm thuê, làm mướn kiếm ăn.

- A Phủ có tính cách mạnh mẽ, táo bạo, không sợ đối mặt với bọn con quan, dảm trừng trị chứng khi chúng quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè. Anh đã phải trả một cái giá rất đắt cho hành động táo tợn ấy : bị bắt, bị phạt vạ, phải làm đầy tớ không công cho nhà thống lí Pá Tra để trừ nợ.

- Cha con tên thống lí cùng lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn lí dịch, quan làng, thống quản... lợi dụng chuyện A Phủ đánh A sử để kéo đến nhà thống lí xử kiện và ăn cỗ suốt từ trưa cho đến hết đêm.

- Trong đoạn văn đặc sắc tả cảnh A Phủ bị phạt vạ, chi tiết cuối cùng gây ấn tượng sâu đậm nhất: Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước tập tễnh nhưng phải cầm dao đi làm thịt lợn hầu những kẻ đã đánh mình, đã biến mình từ nay thành nô lệ trong nhà thống lí.

- A Phủ vì sơ ý để hổ ăn thịt mất một con bò nên anh bị thống lí lấy dây mây trôi đứng vào cọc chờ chết.

- Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Hai người chạy trốn khỏi ách áp bức của thống lí Pá Tra. Ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ gặp phải kẻ thù mới không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ căm thù giặc Pháp vì đã nhận thức được rằng mình là người tự do, của cải bị chúng cướp đi là mồ hôi, nước mắt của mình, phải nhớ lấy để trả thù.

- Sống ở Phiềng Sa, Vợ chồng A Phủ được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. Họ tham gia du kích đảnh lại kẻ thù áp bức mình với tư cách là con người tự do, điều đó thực sự có ý nghĩa nhân đạo.

- Qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài gián tiếp khẳng định rằng chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ra khỏi ách nô lệ áp bức bất công, giúp con người được sống tự do, hạnh phúc.

- Giá trị hiện thực của truyện Vợ chồng A Phủ ngoài việc thể hiện đoạn đời khổ ải của những người dân nô lệ còn nói đến một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nô lệ. Bạo lực cấu kết với thần quyền, với tập tục mê tín dị đoan làm cho họ không cất đầu dậy nổi. Nhưng có áp bức là có đấu tranh. Mị và A Phủ cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn đời sau của vợ chồng A Phủ chứng minh quy luật muôn đời ấy.

+ Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa:

- Tố cáo sự tàn bạo của bạn làng đạo, chúa đất (tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra); bênh vực và cảm thông sâu sắc với những con người có số phận bất hạnh như Mị, A Phủ; trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của đồng bào miền núi; đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh và vạch ra con đường giải phóng cho họ.

- Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động, chân thực những nét tính cách của người Mông nói riêng và người dân miền núi nói chung: mộc mạc, phóng khoáng, tự do...

- Tô Hoài vốn là nhà văn có biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán xã hội. Những đoạn văn đặc sắc giống như những bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, về con người Tây Bắc Với những nét độc đáo...

- Nghệ thuật kể chuyện của tác giả uyển chuyển, linh hoạt. Cốt truyện được trình bày theo trình tự thời gian, tuy vậy có những lúc đan xen, pha trộn quá khứ với hiện tại một cách rất tự nhiên, hợp lí.

3. Kết bài:

- Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại trước mắt người đọc quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị tàn bạo của bạn quan lại, chúa đất phong kiến và thực dân Pháp.

- Đồng thời, tác giả khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm, giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian.

II. BÀI LÀM

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 trong một gia đình thợ thủ công ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (quê ngoại), nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Quê nội của ông ở Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ). Thời trai trẻ, ông phải vất vả kiếm sống bằng nhiều nghề như dạy kèm, thợ thủ công, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn... Vốn có năng khiếu văn chương nên Tô Hoài sáng tác rất sớm và được dư luận chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay, nhất là cuốn truyện viết cho thiếu nhi Dế Mèn phiêu lưu kí.

Năm 1943, Tô Hoài tham gia Hội Văn hoá cứu quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông viết báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Sau hơn bảy mươi năm miệt mài lao động nghệ thuật, Tô Hoài đã sáng tác và xuất bản gần 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác... Do có trình độ hiểu biết sâu rộng và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước nên sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những tình cảnh của đời thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Năm 1996, Tô Hoài được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Tác phẩm chính: Dế Mèn phiêu lưu kí, (truyện cho thiếu nhi, 1941), 0 chuột (tập truyện, 1942), Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí, 1992), Chiều chiều (tự truyện, 1999), Ba người khác (tiểu thuyết, 2006)...

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), được tặng giải Nhất - giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc có sức lôi cuốn, hấp dẫn thực sự bởi giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ vì dám đảnh A Sử, con trai thống lí nên bị phạt và làm đầy tớ không công. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cửu A Phủ. Hai người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị và A Phủ tham gia lực lượng du kích bảo vệ khu giải phóng.

Dưới thời thực dân phong kiến, bọn làng đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió. Chúng nắm trong tay mọi quyền lực, tự cho rằng mình có quyền sinh, quyền sát nên coi tính mạng người dân như cỏ rác. Cha con tên thống lí Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người nghèo tiêu biểu cho giai cấp thống trị ở miền núi. Cũng như bao tên chủa đất khác, thống lí Pá Tra dùng mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi biến họ thành nô lệ. Mị và A Phủ là hai trong nhiều nạn nhân khác của hắn.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện qua số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ. Mị là cô gái xinh đẹp, khoẻ mạnh, được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống tốt lành đang chờ cô phía trước, nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ vay thống lí từ ngày cưới cho đến nay vẫn chưa trả được nên Mi bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Hắn coi Mị như một thứ đồ vật để thay thế cho số tiền mà cha mẹ cô còn nợ hắn.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả hình ảnh người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Một cô gái cô độc, âm thầm gần như lẫn vào giữa các sự vật vô tri : cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa... trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan thống lí. Là con dâu của một gia đình quyền thế có nhiều nướng, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng, vậy tại sao lúc nào cô gái ấy cũng buồn ?! Tác giả đã tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật chính trong tác phẩm.

Trước hết, Tô Hoài nói về cảnh ngộ éo le của gia đình Mị, về món nợ truyền kiếp khiến Mi bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là con nợ, là đày tớ, là nô lệ. Cô đã bị củng “trình ma” nhà thống lí nên không thể chạy đâu cho thoát, sẽ phải sống khốn khổ cho đến tàn đời. Người con dâu gạt nợ ấy bị đày đọa bởi những công việc lao động khổ sai hằng ngày, nhưng đáng sợ hơn cả là sự ràng buộc vĩnh viễn về tinh thần khiến cô cảm thấy mình còn sống mà như đã chết. Mị đã linh cảm về số phận bất hạnh của mình. Lúc đầu, cô tự tin cho rằng mình có thể trả được món nợ của gia đình. Cô van xin cha: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương giả nợ thay cho bố. Bố đừng bản con cho nhà giàu. Nhưng sự thông minh và lòng can đảm của một cô gái mới lớn không thắng được mưu chước thâm độc của cha con tên thống lí. Mị đã bị trọng vào cổ hai cái thòng lọng vô hình là làm con nợ và làm con dâu tên thống lí Pá Tra tham lam, độc ác. Phải sống với A Sử, kẻ mà cô căm ghét và oán hận là nỗi khổ sở, đau đớn không thể nguôi ngoại của Mị. Suốt mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã định ăn lá ngón để tự tử. Trước khi chết, cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của cha già: Mày về lạy chào tạo để mày đi chết đấy là ? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi ! khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà thống lí.

Quãng đời Mi sống với cha con tên thống lí là chuỗi ngày vất vả và đau khổ. Kẻ ác đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô gái xinh đẹp, hồn nhiên thành người đàn bà héo úa, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi... Mị sống âm thầm lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cuộc sống của Mị ngập chìm trong đau khổ triền miên. Không có ai để chia sẻ tâm tình, cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo... Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp Mị xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời cô. Âm thầm và câm lặng như một cái bóng, đó là cách sống mà Mị lựa chọn, cho dù nó trải ngược hoàn toàn với bản tính yêu đời của cô gái một thời xinh đẹp và tài hoa. Bây giờ, Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lí. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi, Cải ác của bọn thống trị là đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đoạ đến mức tinh thần phản kháng cũng dần dần tê liệt. Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi phó mặc cho số phận: Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc.

Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự đày ải kéo dài về tinh thần. Cuộc đời ngột ngạt, tối tăm của Mị chẳng khác gì hình ảnh: ... Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Nhà văn Tô Hoài không chỉ dừng ở việc phản ánh bi kịch mà còn đi sâu miêu tả và thể hiện sức sống tiềm tàng dẫn tới hành động phản kháng mãnh liệt và táo bạo của Mị. Trong đêm xuân, tâm trạng của Mị xốn xang, bổi hổi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, khi khát vọng được yêu, được sống bừng dậy mãnh liệt trong lòng. Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả sâu sắc và tinh tế, phù hợp với tính cách của người con gái ấy. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu cúng ma đón năm mới... đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Trong đêm xuân, tiếng sáo, tiếng khèn, tiếng reo hò náo nức của đám trai gái và lũ trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại: Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Cái không khí nồng nàn của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà thống lí với tiếng chiêng đánh ầm ĩ và đám người nhảy đồng, người hát... Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say... Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh sau bao tháng ngày câm lặng, mụ mị vì sự đoạ đày. Cái cách uống rượu ực từng bát khiến người ta nghĩ như thể Mị đang cố uống cho cạn những đắng cay của phần đời đã qua và uống sự khao khát của phần đời chưa tới. Men rượu và những âm thanh náo nhiệt của ngày Tết khiến Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh bấy lâu nay. Dấu hiệu tích cực đầu tiên là Mị nhở lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái chưa xa, với những bữa rượu bên bếp lửa ấm áp, với tiếng sáo dặt dìu, du dương của bao nhiêu trai làng ngày đêm đi theo Mị...

Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Niềm vui đã trở lại với Mị: Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước, Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi. Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật: Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa,... Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Ý nghĩ về cái chết lúc này là biểu hiện của sự phản kháng thực tại, chứng tỏ rằng Mi đã ý thức sâu sắc về tình cảnh đau đớn, tủi nhục của mình. Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gọi. Tiếng sáo là biểu tượng của sự sống, tình yêu, tự do mà bấy lâu nay dường như Mị đã cố quên, nay nó đang trở lại. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng nhân vật Mị, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong lòng cô gái luôn khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây, trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.

Sức sống trỗi dậy trong con người Mị như những đợt sóng ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước và đã biến thành hành động : Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Có thể coi đây là một hành động có ý nghĩa thức tỉnh: Mị đã tự thắp lên một ngọn đèn soi rọi vào cuộc sống tối tăm của mình để tìm ra lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hoà lẫn với con người thực tại, khiến tâm trạng cô chập chờn, bất định. Mị. vừa sống với thực tại, vừa sống với quá khứ. Hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo như một phản ứng dây chuyền. Dường như không đếm xỉa gì đến những ràng buộc khắt khe của cường quyền, thần quyền, những xiềng xích tàn bạo của nhà thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. Cô quấn lại tóc, rút cái váy hoa trên vách, sửa soạn đi chơi Tết.

Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị dập vùi phũ phàng nhất: A sử bước lại, nắm Mi, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một tháng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, A Sử quấn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại. Trong từng động tác, người đọc thấy toát lên sự tàn ác đến thản nhiên, lạnh lùng của một kẻ đã mất hết nhân tính. Suốt đêm, Mị bị trói đứng vào cột. Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại đau khổ, tủi nhục. Lúc mới bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những đám chơi Tết ngoài kia: Tiếng sảo đưa Mi đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị hầu như quên là mình đang bị trói, quên những sợi dây trói thít vào da thịt đau nhức. Trong giây phút khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt, Mị đã vùng bước đi, nhưng Mị không thể thoát ra được. Sự đối lập gay gắt giữa ước mơ bay bổng và thực tại phũ phàng hiện ra trong hai âm thanh trái ngược: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khốc: Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Thực tại đen tối đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình tuyệt vọng. Điều kì diệu là dẫu trong hoàn cảnh cùng cực nhất thì mọi thế lực tội ác cũng không huỷ diệt được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Trong sâu thẳm tâm hồn cô vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời. Phản ứng tự phát ban đầu chưa thể giải phóng được cuộc đời Mị nhưng những giây phút trỗi dậy lúc này có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày sẽ bùng cháy dữ dội.

Ngày ấy đã đến với Mị. Trước cảnh một con người khí phách ngang tàng như A Phủ mà phải bị đánh, bị trói và lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục của mình, Mị chợt nhớ lại đệm năm trước sử trói Mỹ, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này... Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế... Mị không cầm lòng được, Mị động lòng thương người, thương thân. Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hùng mà mình đã phải chịu đựng suốt mấy năm qua. Nước mắt đau khổ của A Phủ khơi dậy nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ và căm thù cha con tên thống lí độc ác, Mị quên cả sợ hãi nên đã có hành động táo bạo bất ngờ là cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động đó tuy bộc phát nhưng hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Mị đã từng hứa gắng làm rẫy để trả nợ thay bố, đã cắn răng chịu khổ nhục làm con dâu trừ nợ, từng định tìm đến cái chết để giải thoát, thì sao Mị lại không dám chết để cứu một người vô tội cùng cảnh ngộ ?! Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động Lấy chứng tỏ khi khát vọng sống tiềm tàng trong con người bừng dậy, nó sẽ là ngọn lửa dữ dội không thể dập tắt. Nó sẽ biến thành thái độ phản kháng giai cấp thống trị. Những con người bị áp bức sẽ vùng lên đối đầu với bạo lực, cường quyền để tự giải phóng khỏi thân phận nô lệ.

Đây là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, áp bức về tinh thần, đoạ đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt. Mị cắt dây trói cứu A Phủ đồng thời cũng là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Một hành động bất ngờ hơn và quyết liệt hơn xảy ra ngay sau đó. Mị thoáng nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ vừa chạy đi, lập tức Mị cũng vụt chạy theo đuổi kịp A Phủ: A Phủ cho tôi đi... Ở đây thì chết mất. Mị đã cứu A Phủ thì tại sao cô lại không tự cứu mình ?! Nhà văn đã miêu tả rất đúng những chuyển biến mau lẹ, tự nhiên và hợp lôgic của tâm trạng nhân vật trong tình huống gay cấn giữa cái chết và sự sống. Hai con người cùng cảnh ngộ đã lẳng lặng dìu nhau lao chạy xuống dốc núi, bỏ thật xa cái địa ngục đã giam cầm, đày đoạ họ suốt mấy năm trời. Từ trong cái chết, họ vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.

Cũng như Mị, nhân vật A Phủ có số phận đặc biệt. Từ nhỏ anh đã mồ côi cha mẹ, không còn ai thân thích trên đời. A Phủ đã từng bị bắt cóc đem xuống núi bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười tuổi nhưng A Phủ không thích ở dưới cánh đồng thấp, cố tìm cách trốn thoát rồi lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai khoẻ mạnh, cường tráng, chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Con gái trong làng nhiều cô mê: Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu. Người ta ao ước địa thế thôi chứ A Phủ rất nghèo, không có cha mẹ, không có ruộng nương, tiền bạc, chỉ làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Tục lệ cưới xin vô cùng tốn kém nên A Phủ không thể nào lấy nổi vợ.Cuộc sống hoang dã cùng hoàn cảnh sống cực nhọc, vất vả đã hun đúc A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo, can đảm và nghĩa khí. A Phủ không sợ bọn con quan mà thẳng tay trừng trị khi chúng quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. A Phủ đã nắm lấy cái vòng cổ bằng bạc có tua chỉ xanh đỏ của A sử (dấu hiệu con cái nhà quan) để kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh cho hả giận. A Phủ đã phải trả giá rất đắt cho hành động táo tợn của mình. Trận đánh liều lĩnh, hào hứng ấy hoá ra lại là sự mở đầu cho một chặng đường khổ sở tột cùng trong đời A Phủ. Anh bị thống lí Pá Tra bắt, đánh đập và phạt vạ. Người đọc không thể quên đoạn văn tả cảnh phạt vạ với những hình ảnh, chi tiết rất đắt: động tác vuốt ngược cái đầu trọc, kéo đuôi tóc dài ra đằng trước rồi lè nhè gọi của Pá Tra ; cái dáng quỳ bất động suốt một ngày đêm như hoá đá của A Phủ ; cải cách hành hạ vừa dã man vừa lộn xộn của bọn tay sai, người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bởi... rồi lời kết án vô lí và kì cục của tên thống lí... Sự am tường những tập quán lạ lùng của vùng cao là chất liệu quý giá giúp Tô Hoài tạo dựng nên cảnh phạt và có một không hai trong văn học hiện đại.

Nhà văn Tô Hoài tỏ ra rất sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha con tên thống lí cùng lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn lí dịch, quan làng, thống quản... lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống lí xử kiện và ăn cỗ suốt từ trưa cho đến hết đêm. Mấy chục người hút thuốc phiện rào rào. Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để lũ tay sai của tên thống lí Xô đến đánh: Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút...

Trong đoạn văn tả cảnh phạt vạ thì chi tiết cuối cùng là chi tiết gây ấn tượng sâu sắc : Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước tập tễnh nhưng phải tự tay cầm dao làm thịt lợn để hầu hạ chính những kẻ đã đánh đập mình, biến mình từ nay thành nô lệ cho nhà thống lí. Cho dù phải sống với thân phận kẻ đầy tớ trừ nợ trong nhà thống lí những A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do. Quanh năm, A Phủ bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, làm phăng phăng mọi việc. Một hôm, vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất con bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về và bảo: Pá Tra cho mượn súng đi bắn hổ, coi đó là chuyện rất dễ dàng. A Phủ không sợ bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra cũng vậy. Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi tự tay đóng cọc để lũ tay sai của thống lí trói đứng mình vào đó, A Phủ vẫn thản nhiên. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết...

Tô Hoài phát hiện ra hai nét tính cách đối lập nhau trong con người A Phủ: một A Phủ can đảm, bất khuất và một A Phủ cảm nhận tôi đòi. A Phủ này biểu trưng cho phẩm chất tốt đẹp của con người, còn A Phủ kia lại biểu trưng cho sự nhục nhã. Hai mặt đối lập ấy song song tồn tại. Đó chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển nội tại của hình tượng A Phủ.

Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lí Pá Tra, vợ chồng A Phủ lại gặp phải một kẻ thù không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước đồng thời cướp cả quyền tự do được sống làm người. Chúng chẳng khác gì bọn cường hào, ác bá miền núi. Giặc Pháp càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi lợn, bị đánh, bị bắt đi phu khiêng đá xây đồn... A Phủ căm thù giặc Pháp vì anh đã nhận thức được rằng mình là người tự do ; của cải bị chúng cướp đi là mồ hôi, nước mắt của mình - phải nhớ lấy để mà trả thù. Sống ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. Từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích dũng cảm, tự tin và thực sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới, vào kháng chiến.

Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khổ ải của những người nô lệ còn nói đến một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nô lệ. Bạo lực của bọn chúa đất cấu kết với thần quyền, với mê tín dị đoan, với thực dân Pháp trong giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã làm cho họ không cất đầu dậy nổi. Nhưng trong cuộc đời, có áp bức tất có đấu tranh. Mị và A Phủ cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn đời sau của vợ chồng A Phủ đã chứng minh quy luật muôn đời ấy. Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mạnh mẽ. Có thực sự cảm thương số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang văn gây xúc động mạnh mẽ như vậy.

Tính nhân đạo của tác phẩm trước hết thể hiện ở sự bênh vực và cảm thông sâu sắc với số phận của những con người bất hạnh như Mị và A Phủ. Ở khía cạnh này, Tô Hoài tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc từ đời sống vật chất đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc. Trong khi miêu tả, bên cạnh sự cảm thông với những trớ trêu của số phận, người đọc cũng cảm nhận được khá rõ thái độ của nhà văn: tố cáo sự tàn bạo của bạn quan lại phong kiến miền núi, căm giận những thế lực chà đạp lên nhân phẩm con người. Tô Hoài còn phát hiện và trân trọng những phẩm chất cao đẹp như khát vọng tự do, hạnh phúc và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân miền núi. Tô Hoài không chấp nhận để nhân vật của mình bị đẩy vào tình thế bế tắc và tuyệt vọng. Phần một khép lại với kết thúc tốt đẹp. Mị và A Phủ đã tự giải thoát. Sang phần hai của tác phẩm, họ đã thành vợ thành chồng, được sống một cuộc sống tự do ở khu du kích Phiềng Sa.

Số phận khổ đau, nô lệ của Mị và A Phủ tiêu biểu cho số phận người dân miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hoà con người, chà đạp lên nhân phẩm, tình yêu, hạnh phúc là chuyện thường thấy ở cả miền xuôi lẫn miền ngược. Truyện Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện giải quyết được khá sớm. vấn đề số phận của con người trong xã hội thực dân, phong kiến. Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động và chân thực những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, hồn nhiên, phóng khoáng, tự do. Những phẩm chất này khiến người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức đè nén nào. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. Cả hai cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người họ tiềm ẩn sự phản kháng vô vùng mãnh liệt. Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của Tô Hoài thể hiện rõ nhất qua việc thể hiện những diễn biến nội tâm tinh tế và phức tạp của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ.

Tô Hoài vốn là nhà văn có biệt tài miêu tả thiên nhiên và những phong tục, tập quán xã hội. Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng cùng con người Tây Bắc với tính cách độc đáo... đã được tác giả khắc hoạ bằng ngòi bút tài hoa, mang phong vị đặc trưng của vùng núi rừng Tây Bắc. Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài uyển chuyển, linh hoạt, vừa tiếp thu truyền thống vừa sáng tạo. Nhà văn chủ yếu vẫn kể chuyện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy liên tục nhưng nhiều lúc đan xen quá khứ với hiện tại một cách tự nhiên, hợp lí để làm nổi bật điều cần thể hiện.

Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại trước mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bạn quan lại, chúa đất phong kiến. Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi. Qua các hình tượng văn học trong tác phẩm, tác giả gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ra khỏi ách thống trị đầy áp bức bất công, giúp con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.