I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Truyện Tây Bắc (1953) là kết quả của một thời gian dài nhà văn Tô Hoài sống gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao trong kháng chiến chống Pháp.

- Tác giả phản ảnh chân thực và sinh động đời sống cơ cực, tăm tối của người dân miền núi dưới ách thống trị tàn bạo của bạn làng đạo chúa đất và thực dân Pháp; đồng thời phản ánh con đường đến với cách mạng, với kháng chiến của họ.

- Tập truyện viết về đề tài miền núi vừa giàu tính hiện thực vừa đậm đà chất trữ tình của thiên nhiên và cuộc sống. Tô Hoài cho biết khi sáng tác Truyện Tây Bắc, ông đã đưa vào truyện những “ý thơ trong văn xuôi”. Điều đó thể hiện rất rõ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.

2. Thân bài:

* Quan niệm về ý thơ của tác giả.

- Ý thơ ở đây có thể hiểu là vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người... có khả năng tạo ra những cảm xúc thẩm mĩ và rung động mãnh liệt cho người đọc.

* Ý thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ.

+ Thể hiện qua khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống ở Tây Bắc.

- Khung cảnh ngày Tết, mùa xuân ở vùng cao có những nét rất đặc trưng, vừa là bức tranh thiên nhiên thơ mộng với màu sắc và đường nét phong phú, vừa là bức tranh về phong tục rất hấp dẫn.

- Tô Hoài có khả năng quan sát sắc sảo và cách miêu tả đầy sáng tạo nên thiên nhiên trong sáng tác của ông thường sinh động và đầy chất thơ (cảnh mùa xuân về trên núi cao, lời ca và giai điệu tiếng sáo trong những đêm tình mùa xuân, cảnh uống rượu ngày Tết,...). Các phong tục tập quán xưa của đồng bào Tây Bắc như tục cướp vợ, cúng bái, trình ma, xử kiện,... cũng được phản ánh rất chân thực và hấp dẫn.

+ Thể hiện ở vẻ đẹp tâm hồn và sức sống của hai nhân vật Mị, A Phủ.

• Nhân vật A Phủ:

- A Phủ vì dám đánh A Sử con quan nên bị bắt làm đầy tớ không công để trừ vào tiền phạt vạ của nhà thống lí Pá Tra. Tác giả để nhân vật A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau ngày xuân nhằm gây chú ý cho người đọc rồi mới kể về lại lịch của anh. A Phủ dũng cảm đối đầu với A sử. Trận đòn A Phủ đánh A Sử được tác giả miêu tả bằng một loạt từ ngữ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập: chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới, nắm, kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp.

- A Phủ là một thanh niên nghèo khổ, mồ côi cha mẹ. Quanh năm, anh đi làm thuê làm mướn khắp các làng bản. Cuộc sống cùng cực đã tạo cho A Phủ một tính cách mạnh mẽ, gan góc, yêu tự do và tài năng lao động đáng quý. A Phủ thích những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm: Anh biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi, đốt rừng, cày nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Cuộc sống phóng khoáng và bản tính cương trực, chất phác của A Phủ tiêu biểu cho tính cách đặc trưng của dân tộc Mông.

- Việc A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt làm đầy tớ trừ nợ làm tăng sức tố cáo của tác phẩm : Một chàng trai khoẻ mạnh vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, vậy mà cũng bị dồn đẩy vào thân phận nô lệ, khó thoát ra được.

- Sơ ý để hổ bắt mất một con bò, A Phủ xin Pá Tra cho mượn súng đi bắn hổ, nhưng bị từ chối. Suốt mấy ngày đêm, anh bị cha con thống lí trói đứng vào cọc chờ chết. Người con trai dũng mãnh ấy đã lâm vào tình cảnh tuyệt vọng. Sau khi được Mị cắt dây trói cứu thoát, A Phủ ngã khuyu xuống nhưng rồi khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt khiến anh quật sức vùng lên, chạy.

• Nhân vật Mị:

- Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên. Khi bị bắt về làm con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phản kháng quyết liệt định ăn lá ngón tự tử. Nhưng rồi kiếp sống tủi nhục kéo dài đã làm tê liệt sức phản kháng và cô đành cam chịu thân phận nô lệ.

- Đoạn văn mở đầu tả Mị ở nhà thống lí Pá Tra thể hiện tâm trạng chán chường, đau khổ và thân phận bị ràng buộc của Mị trong hoàn cảnh sống ngột ngạt, tù đọng và bị lãng quên.

- Tuy vậy, trong con người Mị vẫn tiềm tàng sức sống mạnh mẽ cùng khát vọng tự do và tình yêu. Những điều này chỉ bùng lên ở những thời điểm nhất định và biểu hiện ra thành những hành động quyết liệt, táo bạo.

- Đoạn văn tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân tràn đầy cảm xúc trữ tình, phản ảnh tâm trạng bâng khuâng, nhớ tiếc quá khứ tươi đẹp chưa xa. Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do của nhân vật Mị thể hiện qua chi tiết Mị muốn đi chơi nhưng bị A sử trói vào cột. Tác động của ngoại cảnh (mùa xuân đến, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu bên bếp lửa...) đã thức tỉnh Mi, bắt đầu từ nỗi nhớ những kỉ niệm trong quá khứ. Tiếng sáo tình yêu thôi thúc khát vọng sống trong lòng Mị. Từ suy nghĩ tới hành động (thắp đèn sáng lên, quấn lại tóc, rút váy hoa, chuẩn bị đi chơi) chứng tỏ bấy lâu nay, Mị vẫn âm thầm sống với những khao khát cháy bỏng...

- Ý thơ được thể hiện rất tự nhiên qua tiếng sáo đêm xuân gợi lên bao nỗi niềm xốn xang trong tâm trạng cô gái trẻ. Tiếng sáo là ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt bằng âm thanh của người Mông. Nhà văn Tô Hoài đã sử dụng rất “đắt” chi tiết tiếng sáo” trong việc diễn tả tâm trạng Mị đang bị cầm giữ trong căn buồng tối tăm, ngột ngạt. Tiếng sáo trở đi trở lại nhiều lần như những lời nhắc nhủ, rủ rê, mời gọi đầy ám ảnh. Trước hết, tiếng sáo vọng lại từ ngoài đầu núi; sau đó, tiếng sáo vẳng lên gần hơn ở đầu làng. Rồi tiếng sáo gần thêm, ở ngay ngoài đường. Tiếng sáo gọi bạn yêu tha thiết và gợi cảm. Cuối cùng, tiếng sáo văng vẳng rập rờn ở trong đầu cô gái đáng thương đang khát khao tự do và tình yêu.

- Nhà văn miêu tả tiếng sáo rất tài tình bằng những từ ngữ vừa chuẩn xác vừa gợi tả, gợi cảm: tiếng sáo lấp ló, lửng lơ, rập rờn. Tiếng sáo bên ngoài cộng hưởng với tiếng sáo trong tưởng tượng của Mị tạo nên một âm hưởng da diết, sâu lắng, rung động lòng người.

+ Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát của nhân vật Mị được tác giả miêu tả tự nhiên và lôgíc: Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói đứng vào cột bếp, Mị vẫn thản nhiên, lạnh lùng vì cô đã quá quen với những cảnh ngang trái trong nhà Pá Tra. Nhưng rồi một đêm, qua ảnh lửa, cô nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại - biểu hiện sự đau đớn, tuyệt vọng của A Phủ - chàng trai gan góc, khoẻ mạnh - thì trong lòng Mị chợt trào lên một nỗi xúc động và đồng cảm với A Phủ. Tình thương đã thắng sự sợ hãi, dẫn Mị đến hành động táo bạo: cắt dây trói cửu A Phủ. Đúng lúc ấy, hi vọng và khao khát sống bùng lên mãnh liệt và Mị đã chạy theo, cùng trốn đi với A Phủ, tự giải thoát cho cuộc đời mình.

- Đoạn văn này được tác giả viết bằng một tiết tấu nhanh, dứt khoát, khác hẳn các đoạn trước, nhằm thể hiện sự phản kháng đột ngột nhưng dữ dội của Mị trước cái xấu, cái ác; sự đồng cảm sâu xa trước sự sống và cái chết của người cùng cảnh ngộ và cũng là của chính mình.

II Bài làm

... Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi...

Ngôn ngữ giản dị mộc mạc vậy mà hàm chứa cái lẽ sống phóng khoảng tự do của con người. Lẽ sống đơn giản ấy qua tiếng sáo đã vọng vào tâm hồn Mị, cô gái có một thời thổi sáo rất hay. Những bức tranh sinh hoạt, những phong tục có từ ngày xưa, đặc biệt là cảnh ăn Tết của người Mông được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chi tiết tiêu biểu thể hiện đặc điểm riêng rất phong phú, đa dạng của con người và thiên nhiên Tây Bắc: Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết. Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh bao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cũng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa.

Tục “cướp vợ” của người Mông được tác giả miêu tả tỉ mỉ gây ấn tượng thú vị, ngạc nhiên đối với người đọc: Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhắn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe có tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu... Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mi bước ra... Tiếc thay, bàn tay ấy không phải là của người yêu Mị mà là của một kẻ trong đám “cướp vợ” của A sử - gã con trai ngang ngược và độc ác nổi tiếng trong vùng.

Sáng hôm sau, A sử đến nhà báo cho bố Mị biết: Tôi đã cướp được con gái bố làm vợ, tôi đem về công trình ma nhà tôi rồi, bây giờ tôi đến trình cho bố biết. Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi. Sau lễ cúng trình ma, Mị trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí, món nợ nhỏ nhoi mà cha mẹ cô nợ hắn từ lúc mới lấy nhau.

Ý thơ trong văn xuôi còn thể hiện qua bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc và tinh tế của Tô Hoài, khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và sức sống, nhất là khát vọng tự do, khát vọng tình yêu và sự đồng cảm của hai nhân vật chính. Trước hết là nhân vật A Phủ - đầy tớ trừ nợ của nhà thống lí Pá Tra. Tác giả giới thiệu A Phủ bằng sự xuất hiện đột ngột của anh để gây chú ý cho người đọc rồi mới kể về lại lịch. Trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử, A Phủ dám đối đầu với A Sử - tên con trai nhà giàu trang tráo và hung hãn. A Phủ dũng mãnh giành được thế áp đảo.

Đoạn văn miêu tả cảnh đánh nhau có một loạt từ ngữ miêu tả hành động với nhịp điệu nhanh, mạnh, dồn dập: Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. A Phủ mang dáng dấp và hình ảnh của một chàng trai hào hiệp trong dân gian : to lớn, khoẻ mạnh, can đảm và nghĩa khí. Chàng trai ấy không sợ đối mặt với bọn con quan; ngược lại, anh thẳng tay trừng trị chúng vì chúng dám quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. A Phủ nắm lấy cái vòng cổ bạc có tua chỉ xanh đỏ của A Sử - dấu hiệu con cái nhà quan - để kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh tới tấp cho hả giận.

Đoạn văn tả cuộc xử kiện là bức tranh phong tục sinh động của xã hội phong kiến ở miền núi Tây Bắc : Bọn chức việc khắp vùng Hồng Ngài đến nhà thống lí Pá Tra dự đám xử kiện. Các lí dịch, quan làng, thống quán, xéo phải đội mũ, quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa kéo đến xử kiện và ăn cỗ. Trong nhà thống lí đã bày năm cái bàn đèn. Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khỏi bếp. Cả những người chức việc bên làng A Phủ cũng tới. Nhưng chỉ bọn con trai làng ấy phải ngồi khoanh tay cạnh A Phủ vì họ bị gọi sang hầu kiện, còn bọn chức việc thì nằm dài cả bên khay đèn. Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người hút. Trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác lại hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự kiện. Chỉ có đàn bà ngồi trong buồng hoặc đi lại bên ngoài dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà là không được dự tiệc hút ấy. Lúc một loạt người vừa hút xong, Pá Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất giọng lè nhè gọi:

- Thằng A Phủ ra đây.

A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa tên thống lí Pá Tra rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá. Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.

Qua cách miêu tả tỉ mỉ, sinh động, ta thấy sự hiểu biết cặn kẽ, tường tận của Tô Hoài về thực tế cuộc sống và phong tục tập quán của xứ sở có nhiều cây thuốc phiện, Tô Hoài đã lưu vào văn chương hình ảnh độc ác của bọn lang đạo, chúa đất vùng cao Tây Bắc cùng sự bất công của tục lệ và nỗi oan khiên của người nghèo. Tô Hoài tả cảnh xử kiện ấy với một vẻ ghê rợn rất khó quên.

Trong đoạn văn đặc sắc đầy ắp tính hiện thực nói trên thì chi tiết ám ảnh người đọc nhất là chi tiết cuối cùng: Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước đi tập tễnh nhưng phải cầm dao làm thịt lợn hầu hạ chính những kẻ đã đánh mình, những kẻ biến mình từ nay thành nô lệ trong nhà thống lí. Sự bất công, bất nhân của đám lạng đạo chúa đất dường như đạt tới điểm đỉnh. Khi miêu tả A Phủ, tác giả có dụng ý thể hiện tính cách của những con người vùng cao Tây Bắc. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoảng gần gũi thiên nhiên và tính tình chất phác, cương trực của A Phủ cũng là nét tính cách đặc trưng của trai làng người Mông.

A Phủ mồ côi cha mẹ, nghèo khổ không có ruộng nương, không có cả cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. A Phủ từng bị bắt bán xuống vùng người Thái dưới chân núi, Cuộc sống cùng cực đã hun đúc cho A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và tính cách gan góc cùng với tài năng lao động đáng quý. A Phủ thành thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc và khó khăn, nguy hiểm. Anh biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. A Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Một chàng trai khoẻ mạnh vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn chúa đất, phải rơi vào thân phận nô lệ. Điều đó làm tăng thêm sức tố cáo sự áp bức bất công của xã hội thực dân phong kiến.

Một hôm, khi đi chăn bò, A Phủ sơ ý để hổ bắt mất một con. A Phủ xin Pá Tra cho mượn súng đi bắn hổ. Pá Tra giận dữ ra lệnh trói đứng A Phủ vào cọc suốt mấy ngày đêm. Đau đớn, đói khát và tủi nhục khiến cho người con trai dũng mãnh ấy tuyệt vọng: một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mà đã xám đen lại. Trong hoàn cảnh cùng cực tưởng như không còn gì để mà hy vọng, A Phủ đã được một cô gái cùng cảnh ngộ cứu giúp. Sau khi được Mị cắt dây trói, A Phủ ngã khuỵu xuống, nhưng rồi khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt khiến anh quật sức vùng lên, chạy.

Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên và đầy sức sống. Khi bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra, Mị đã pnản kháng quyết liệt bằng cách định ăn lá ngón tự tử. Nhưng rồi kiếp sống nô lệ triền miên dường như đã làm tê liệt sức phản kháng và cô đành cúi đầu cam chịu số phận. Đoạn văn mở đầu tả cảnh Mị ngồi làm việc trước cửa nhà thống lí có nhịp điệu chậm rãi, giống như những câu thơ trữ tình có âm hưởng u buồn, trầm lắng, rất phù hợp với việc diễn tả chân dung và thể hiện tâm trạng chán chường, đau khổ cùng thân phận bị ràng buộc của cô gái bất hạnh. Mị đã phải sống nhiều năm trong không khí ngột ngạt, tù đọng và bị lãng quên: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thải có ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.. Tuy vậy, trong con người Mị vẫn tiềm tàng một sức sống cùng với khát vọng tình yêu và tự do. Sức sống của nhân vật này ẩn giấu ở nội tâm, chỉ bùng lên trong những thời điểm nhất định và biểu hiện qua những hành động quyết liệt, táo bạo. Trong suốt phần đầu của truyện, hầu như Mị không nói lời nào, ngoại trừ câu nói với cha được dẫn lại qua lời người kể chuyện. Điều đó cho thấy Mị là người có đời sống nội tâm âm thầm mà mạnh mẽ.

Sự trỗi dậy của sức sống thanh xuân cùng khát vọng tự do cháy bỏng ở nhân vật Mị thể hiện qua nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế và sâu sắc của tác giả trong đoạn tả đêm xuân ở Hồng Ngài. Tâm trạng của Mị tràn đầy cảm xúc trữ tình. Mị bâng khuâng, da diết nhở và nuối tiếc quá khứ tươi đẹp chưa xa: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mi uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mi. Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trợ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà Mị từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mi cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mi ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau ! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả cao rơi rồi...

Tác động của ngoại cảnh là mùa xuân đến cùng tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu bên bếp lửa đã thức tỉnh Mị. Quá trình thức tỉnh của Mị bắt đầu từ sự bừng dậy trong tiềm thức những hồi ức, kỉ niệm của quá khứ. Rồi Mị chìm đắm trong tiếng sáo. Ý thức về thời gian cũng đã trở lại cùng với khát vọng sống và ý thức về thân phận mình. Từ ý thức tới hành động của Mi đều thể hiện điều đó. Mị thắp đèn sáng lên, quấn lại tóc, rút chiếc váy hoa, chuẩn bị đi chơi. Bị A Sử đánh và trói vào cột không cho đi chơi, nhưng Mị cũng không hề phản ứng. Mị vẫn mê mải sống với những khao khát cháy bỏng : Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pạo nào...”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi... Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhỏ. Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

Đây là đoạn văn hay nhất bởi nó thấm đẫm cảm xúc trữ tình. Ý thơ trong văn xuôi được Tô Hoài thể hiện một cách tài tình qua tiếng sáo. Người đọc lắng nghe thật kĩ tiếng sáo vút lên hoà cùng nỗi niềm của cô gái Mông khi mùa xuân về. Tiếng sáo là ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt bằng âm thanh của người Mông. Từ thực tế ấy, Tô Hoài đã công phu sáng tạo và sử dụng rất “đắt” chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân để miêu tả diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị đang bị cầm giữ trong căn buồng tối tăm, ngột ngạt thành thương người cùng cảnh ngộ. Tất cả những điều xảy ra trước mắt Mị giống như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước uất hận trong Mị; thổi bùng ngọn lửa phản kháng tưởng chừng đã bị dập tắt bởi những cơn gió bạo lực triền miên và đem lại cho Mị một sức mạnh bất ngờ, xua tan nỗi sợ hãi cố hữu ám ảnh cô bấy lâu nay. Mị đã có một hành động bộc phát quyết liệt là cắt đứt dây trói cứu A Phủ và chạy trốn cùng anh ra khỏi nhà thống lí Pá Tra, ra khỏi Hồng Ngài.

Đoạn văn tả suy nghĩ và hành động đột ngột của Mị cắt dây trói cứu A Phủ được tác giả viết bằng một tiết tấu nhanh, dứt khoát, nhằm thể hiện thái độ phản kháng mạnh mẽ của Mị trước cái xấu, cải ác của cha con tên thống lí Pá Tra; sự đồng cảm sâu xa trước sự sống và cái chết của người cùng cảnh ngộ và cũng là của chính mình: Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mi tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay...", rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuyu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ quật sức vùng lên, chạy.

Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

- A Phủ cho tôi đi.

A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

- Ở đây thì chết mất.

A Phủ chợt hiểu.

- Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.

A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ có nhiều đoạn giống như những bài thơ với vần điệu nhịp nhàng, giàu nhạc tính cùng những hình ảnh chân thực đan xen với những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng thường thấy trong nghệ thuật thơ ca. Chất thơ trong tác phẩm đã nâng con người vượt lên trên hoàn cảnh tăm tối, khổ đau ; truyền cho người đọc tình cảm yêu mến và những rung cảm sâu xa về cuộc sống và con người Tây Bắc, Văn Tô Hoài mang giọng điệu trữ tình hấp dẫn. Tác giả lôi cuốn người đọc bằng sự từng trải, tinh tế, bằng phong vị đậm đà màu sắc dân tộc vùng cao. Đây cũng là thế mạnh, là sở trường trong phong cách sáng tác, khiến cho các tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu đậm và có sức sống lâu dài trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Với bảy mươi năm cầm bút, Tô Hoài đã cống hiến cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc. Ông xứng đáng là cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại.