I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, xuất bản năm 1953. Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
- Thông qua số phận của các nhân vật, tác giả phản ánh cuộc sống tối tăm, cơ cực của đồng bào miền núi dưới ách thống trị của đế quốc, phong kiến và con đường đến với cách mạng giải phóng của họ.
- Nhà văn xây dựng rất thành công nhân vật Mị - một cô gái Mông xinh đẹp và bất hạnh với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.
2. Thân bài:
* Hoàn cảnh đáng thương của nhân vật Mị.
- Mị vốn là cô gái trẻ trung, xinh đẹp, được nhiều trai bản đem lòng yêu mến. Chỉ vì món nợ không thể trả của cha mẹ mà Mi bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
- Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị. Cô sống mà như đã chết. Mọi cảm xúc tưởng chừng đã nguội lạnh. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.
- Không chỉ bị đoạ đày về thể xác, Mị còn bị cha con tên thống lí gian ác đè nén, áp bức về mặt tinh thần. Cuộc đời Mi bị trói buộc bằng quyền lực, tập tục mê tín dị đoan... nên khó có thể thoát ra được. Ý chí phản kháng của Mị gần như đã bị dập tắt. Cô chấp nhận kiếp sống trâu ngựa...
* Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị.
- Trong tột cùng đau khổ, tủi nhục, khát vọng sống của Mị vẫn tồn tại, chỉ chờ cơ hội là bùng phát mãnh liệt. Điều này thể hiện rất rõ ở đoạn văn tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân ở Hồng Ngài.
- Mị uống ực từng bát rượu. Đây là biểu hiện đầu tiên của sự chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn Mị. Nghe tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng, lòng Mị thổn thức, bâng khuâng nhớ về thời con gái chưa xa với những kỉ niệm khó quên.
- Bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Lòng yêu đời, ham sống, khao khát tình yêu trỗi dậy, thôi thúc Mị hành động. Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Mị thắp sáng đèn, lấy chiếc váy hoa trên vách mặc vào. Lúc này, cô Mị đau khổ, lầm lũi như chiếc bóng lặng câm đã nhường chỗ cho cô Mị đang thấy lòng phơi phới trở lại.
- Khát vọng tự do, khát vọng tình yêu của Mỹ bị A sử - gã chồng tàn bạo cấm đoán và vùi dập phũ phàng. Bị trói đứng vào cột buồng, da thịt đau nhức nhưng Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn mùa xuân... Những giây phút thức tỉnh của Mị trong tình cảnh này thật cảm động và thấm đẫm tính nhân văn.
- Sự “nổi loạn” này chưa giải phóng được Mị khỏi kiếp sống nô lệ nhưng nó có vai trò quan trọng khơi dậy ý thức phản kháng tiềm tàng trong con người Mỹ, để dẫn đến kết quả tất yếu là Mị liều lĩnh cắt dây trói cứu A Phủ và cũng là tự giải thoát cho mình.
3. Kết bài:
- Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí với nhiều cung bậc khác nhau của cảm xúc, nhà văn Tô Hoài đã thể hiện thành công sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị; đồng thời khẳng định không một bạo lực đen tối nào dập tắt được sức sống và khát vọng tự do của con người.
- Tác giả cũng gián tiếp khẳng định: chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân dưới sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người khỏi kiếp sống nô lệ. Đó là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.
II. BÀI LÀM
Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.
Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mi bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn. Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mi sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mi, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thuở nào dường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi... ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa... của nhà thống lí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Không những bộ đoạ đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mi bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị con ma nhà thống lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo... Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời. Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn... Khổ biết chừng nào! Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng...
Bao năm qua, bị đày đoạ trong nhà thống lí, mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết ăn cỏ và đi làm thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rồi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa. Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không huỷ diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đoạ kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tại Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi...
Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ nay sống dậy. Mị lại nhận thức đúng về người mình, thấy mình còn trẻ lắm. Mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ nên Mi muốn đi chơi. Khát vọng chính đáng bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A sử đảnh Mi, trói Mi, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Nhưng rồi thực tại phũ phàng đã dập tắt tiếng sáo thiết tha và hình ảnh mùa xuân rực rỡ. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.
Trước cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm mả đã sạm đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được, Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đoạ đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử đã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bị thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lại mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước. Cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khoẻ mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.
Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của cả một quả trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mỹ bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình: ở đây thì chết mất. Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh vuối cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thể vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.