I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm.
- Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) là nhà thơ, nhà biên kịch nổi tiếng của sân khấu Việt Nam hiện đại.
- Trong vòng mười năm, tác giả đã sáng tác hơn năm mươi vở kịch với nội dung đề cập tới những vấn đề bức xúc, nóng bỏng, liên quan tới đời sống tinh thần của con người và công cuộc đổi mới cùng quá trình phát triển của đất nước.
- Kịch Lưu Quang Vũ đã gây ra những ý kiến tranh luận trái ngược nhau trong nhiều năm, tạo nên “hiện tượng Lưu Quang Vũ” chưa từng có từ trước tới nay. Những vở kịch xuất sắc đã khẳng định tài năng thực sự của tác giả. Năm 2000, Lưu Quang Vũ được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.
- Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt có nguồn gốc dân gian đã được tác giả biên soạn lại và lồng vào trong đó nhiều vấn đề mới mẻ có tính triết lí và nhân văn sâu sắc; được đánh giá là một trong những vở kịch làm nên tên tuổi Lưu Quang Vũ.
- Đoạn trích trong sách giáo khoa là hồi kết, thể hiện sự giằng xé đau đớn của hồn Trương Ba trước nghịch cảnh phải sống nhờ trong thân xác anh hàng thịt. Qua đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh bảo vệ nhân cách và cuộc sống đích thực...
2. Thân bài:
* Cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn và xác Trương Ba.
+ Mâu thuẫn kịch trong đoạn này được đẩy lên điểm đỉnh, thể hiện qua sự giằng xé, dằn vặt của hồn Trương Ba: không muốn trú ngụ trong cái thân xác thô kệch của anh hàng thịt.
+ Hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại bắt đầu. Tính chất triết lí ẩn chứa trong từng lời thoại của nhân vật.
- Xác hàng thịt lên tiếng trước, giọng điệu mỉa mai, chế giễu khi nói tới cố gắng giải thoát của hồn Trương Ba và khẳng định là điều đó không thể xảy ra được.
- Hồn Trương Ba mắng nhiếc xác hàng thịt với thái độ giận dữ và coi thường.
- Cuộc tranh luận giữa hồn và xác càng về sau càng gay gắt. Có những lúc xác đẩy hồn vào thế lúng túng, bị động.
- Lưu Quang Vũ kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian, đề cao vai trò quan trọng của phần hồn so với phần xác, đồng thời cũng chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa hồn và xác.
* Bi kịch của Trương Ba và quyết định giải thoát.
+ Trương Ba lâm vào tình thế rắc rối, khó xử về nhiều mặt, nhất là trong quan hệ với người thân. Ông bị vợ, con và cháu là những người mà ông yêu quý xa lánh, sợ hãi...
- Tất cả những điều đó làm cho Trương Ba đau khổ, dằn vặt, không muốn sống nữa. Lời nói chân thành của chị con dâu càng làm cho ông nhận thức rõ hơn về bi kịch của mình, thúc đẩy ông tới quyết định chấp nhận cái chết thật sự để được giải thoát khỏi mọi hệ luỵ đã làm khổ ông và mọi người.
- Cuộc trò chuyện giữa Trương Ba và tiên cờ Đế Thích không làm cho Trương Ba thay đổi ý định. Hành động dứt khoát của Trương Ba rất đúng đắn và cao thượng, chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.
3. Kết bài:
- Đoạn trích tập trung cao độ tư tưởng nhân văn của vở kịch.
- Tác giả gián tiếp khẳng định quan điểm sống thông qua hình tượng nghệ thuật: cách sống đúng đắn nhất trước hết mình phải là mình và sau đó là biết mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người, cho cuộc đời.
- Vở kịch với giá trị nội dung và nghệ thuật cao đã tôn vinh tên tuổi Lưu Quang Vũ trong nền sân khấu Việt Nam hiện đại.
II. BÀI LÀM
Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) là con trai của nhà biên kịch Lưu Quang Thuận, quê gốc Quảng Nam, sống và làm việc trên đất Bắc, Thừa hưởng truyền thống văn chương của dòng họ, Lưu Quang Vũ sáng tác khá sớm. Ở tuổi hai mươi, khi đang là một chiến sĩ của binh chủng Phòng không - Không quân, Lưu Quang Vũ đã có nhiều bài thơ trữ tình được thế hệ trẻ yêu thích. Từ năm 1978 đến năm 1988, ông là biên tập viên của tạp chí Sân khấu.
Trong giai đoạn đầu tiên của thời kỳ đổi mới, xã hội Việt Nam có rất nhiều vấn đề nóng bỏng và bức xúc, liên quan tới quá trình phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân dân. Vốn là người quan tâm tới thời cuộc, Lưu Quang Vũ đã quyết định chuyển hẳn sang sáng tác kịch để có điều kiện bày tỏ, thể hiện những nhận thức và quan điểm của mình trước công luận. Chỉ trong vòng mười năm, hơn năm mươi vở kịch với những đề tài hết sức thời sự và thiết thực của Lưu Quang Vũ đã được dàn dựng, biểu diễn trên khắp cả nước, đem lại một sức sống mới cho sân khấu Việt Nam và tạo ra những tranh luận, đánh giá sôi nổi, thậm chí có những ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau. Người ta gọi đó là “hiện tượng Lưu Quang Vũ” và hiện tượng này có thể nói là chưa từng xảy ra trong lịch sử sân khấu Việt Nam. Những vở kịch như: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Nếu anh không đốt lửa, Khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta... đã khẳng định tài năng xuất sắc và nhiệt tình cháy bỏng cùng tình yêu thương con người, cuộc đời và trách nhiệm công dân rất cao của Lưu Quang Vũ. Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.
Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt vốn là một câu chuyện dân gian có từ lâu đời đã được tác giả Lưu Quang Vũ xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân văn sâu sắc. Vở kịch được công diễn nhiều lần trong và ngoài nước, được dự luận đánh giá là một trong những vở kịch làm nên tên tuổi Lưu Quang Vũ. Nội dung vở kịch tóm tắt như sau: Trương Ba là một người làm vườn có tài chơi cờ tướng. Vì sự nhầm lẫn của Nam Tào (vị quan trên Thiên đình trông coi về việc sinh tử của con người dưới trần gian) nên Trương Ba bị chết oan. Để sửa sai, Nam Tào cùng Đế Thích (tiên cờ) làm cho Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt. Mọi chuyện rắc rối xảy ra từ đây. Trương Ba bị làm phiền liên tục, bị người thân sợ hãi, xa lánh. Bản thân Trương Ba cũng rất khó chịu vì phải sống trong thân xác không phải của mình. Cuối cùng, ông đã quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết thực sự để giải thoát cho mình. Đoạn trích là đoạn kết, tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh. phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hoá trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Ở đoạn này, mâu thuẫn kịch đã lên tới điểm đỉnh và được tác giả thể hiện qua sự dằn vặt, giằng xé đau đớn của hồn Trương Ba. Mở đầu là cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc : Không ! Không ! Tôi không muốn sống như thế này mãi . Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi ! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc ! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát! Tiếp sau đó, hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn và xác bắt đầu. Dưới lớp vỏ ngôn ngữ của những lời đối thoại là nhiều tầng nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc vào trình độ của người xem kịch. Lưu Quang Vũ rất chú ý đến việc dùng ngôn ngữ để phản ánh tính cách và bản chất nhân vật. Xác hàng thịt lên tiếng với giọng điệu mỉa mai, chế giễu và phủ nhận những cố gắng giải thoát của hồn Trương Ba: Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác... Hồn Trương Ba đáp lại với thái độ vừa ngạc nhiên vừa coi thường: A, mày cũng biết nói kia à ? Vô II, mày không thể biết nói ! Mày không có tiếng nói, mà chỉ là xác thịt âm u đui mù... Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt...
Lưu Quang Vũ kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của linh hồn so với thể xác. Thế nhưng tác giả đã để cho cuộc tranh luận giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt không kém phần gay go, quyết liệt. Có những lúc tiếng nói của xác thịt dường như lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh hồn vào thế lúng túng, bị động: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục !... Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi... Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác... Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông hay vịn có tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác... Mỗi bữa tôi đòi ăn tám chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào ? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ !... Tôi thông cảm với những trò chơi tâm hồn của ông". Nghĩa là : Những lúc một mình một bóng, ông cử việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều gì xấu ông cử việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện ! Hà hà, miễn là... ông vẫn làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát của tôi ! Hồn Trương Ba tuy vẫn khăng khăng phủ nhận lí lẽ của các hàng thịt: Lí lẽ của anh ti tiện thật ! nhưng rõ ràng là đã lâm vào tình thế tuyệt vọng và chỉ biết than: Trời !
Cả gia đình Trương Ba cũng bị cuốn vào bi kịch bởi những điều lộn xộn, tréo ngoe do hồn một đằng xác một nẻo gây ra. Vợ Trương Ba thì trách móc chồng: Ông bây giờ còn biết đến ai nữa ! Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ đêm qua tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ con mắt. Khổ ! Thằng bé ngoan là thế ! Cái Gái thương bạn, ngơ ngẩn cả người... Không hiểu thằng bé có qua khỏi được không, khéo mà... Cải thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh! Bà muốn bỏ nhà mà đi. Bà nói như khóc: Tôi nói thật đấy... ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ : Có lẽ tôi phải đi... Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt... Để ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt... Còn hơn là thế này... Tôi biết, ông vốn là người hết lòng thương yêu vợ con... Chỉ tại bây giờ... Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa... Cái Gái, đứa cháu nội yêu quý của Trương Ba cũng tỏ thái độ gay gắt: Tôi không phải là cháu của ông ! Ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông! Ông dám nhận là ông nội, dám đụng vào cây cối trong vườn của ông nội tôi. Khi hồn Trương Ba cố gắng thanh minh: ... Sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn, cháu không thấy sao : Chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế... thì cái Gái lại càng gào lên căm giận: Quý cây ! Hừ, tôi phải tình lúc này, cả nhà đi vắng hết để nói với ông: Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn ông tôi nữa! lông mà quý cây à ? Sáng qua, tôi để ý lúc ông chiết cam, bàn tay giết lợn của lông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy? Chị con dâu của Trương Ba là người hiểu ông, thương ông nhất. Lúc đầu, chị chấp nhận tình cảnh trớ trêu của cha chồng vì thân xác tuy là của anh hàng thịt thô kệch nhưng tâm hồn ông vẫn thuần hậu như xưa. Chị nói: Thầy vẫn dạy chúng con: cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể. Nhưng đến lúc này, chị cũng thấy vừa thương vừa sợ. Chị đau đớn, day dứt khi phải thật tình bộc bạch suy nghĩ của mình với cha chồng: ...thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy đau đớn, khi mỗi ngày thấy một khác dần, mất mát dân, tất cả cứ như lệch lạc, nhoà mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia ? Làm thế nào, thầy ơi ! Chị con dâu đã nhận xét rất đúng, rất đầy đủ về tình cảnh nan giải của Trương Ba lúc này. Lời nói của chị con dâu chứa đựng sự thực phũ phàng có tác dụng thức tỉnh hồn Trương Ba, thúc đẩy ông tới một sự lựa chọn, một hành động đau xót nhưng quyết liệt.
Đoạn độc thoại thể hiện sự dằn vặt, khổ sở của hồn Trương Ba khi phải đối diện với chính mình, khi tự đặt ra và trả lời những câu hỏi của lương tâm: Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta , mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta... Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình ? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả ? Nhưng có thật là không còn cách nào khác ? Không cần cài đời sống do mày mang lại! Không cần !
Để củng cố thêm quyết tâm, Trương Ba thắp nhang cầu khẩn sự giúp đỡ của vị tiên cờ Đế Thích và thổ lộ nỗi khổ tâm của mình: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân xác anh hàng thịt được nữa, không thể được !... Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Thế nhưng những lời giải thích của Đế Thích lại làm cho Trương Ba một phen bàng hoàng : Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư ? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu! Bàng hoàng nhưng Trương Ba vẫn như đang đắm mình trong dòng suy nghĩ, dằn vặt, thoáng chút trách móc: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
Sự giằng xé trong tâm trạng Trương Ba được tác giả vở kịch thể hiện tự nhiên, sinh động và chân thật. Muốn thoát khỏi tình huống khó xử và khó chịu như thế này, Trương Ba chỉ còn một cách là chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Ông muốn Đế Thích trả lại thân xác cho anh hàng thịt để phần hồn sẽ sống hoà thuận với thân xác anh ta, để vợ anh ta không còn phải sống trong cảnh goá chồng thật đáng thương. Trong khi Đế Thích đang phân vân hỏi nếu làm như vậy thì hồn Trương Ba sẽ trú ở đâu, Trương Ba đã trả lời dứt khoát: Ở đâu cũng được chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ... tôi sẽ... nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất... Mâu thuẫn kịch được đẩy lên cao hơn với chi tiết cu Tị con chị Lụa hàng xóm sắp chết. Cu Tị là bạn thân của cái Gái cháu nội ông Trương Ba. Đế Thích nhân cơ hội này đề nghị Trương Ba nhập hồn vào các cụ Tị. Trương Ba suy nghĩ rất nhanh, hình dung rất nhanh về hậu quả của sự việc đó để rồi từ chối, bởi những rắc rối mà ông đang phải chịu đựng đã khiến ông vô cùng khổ sở, khổ sở hơn là chết.
Thường Trương Ba, con người hiền lành, đôn hậu và không muốn mất người bạn cờ tri âm tri kỉ nên Đế Thích vẫn cố gắng thuyết phục, nhưng Trương Ba khăng khăng không đổi ý: Tôi đã nghĩ kĩ... Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn ! Hành động trả lại thân xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là hành động đúng đắn, dũng cảm và hợp đạo lí. Điều đó khẳng định rằng: Một linh hồn dù tốt đẹp đến đâu nhưng phải trú ngụ trong một thể xác khác thì cũng không thể nào thấy thoải mái vì mặc cảm giả dối. Sống như thế thì không phải là sống theo đúng ý nghĩa của từ này mà chỉ là sự tồn tại đơn thuần mà thôi. Trương Ba chết nhưng linh hồn tốt đẹp của ông sẽ sống mãi trong tình yêu mến và nỗi tiếc nhở của gia đình, bạn bè, làng xóm. Chết nhưng lại là vẫn sống.
Đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và tư tưởng nhân văn của vở kịch có nguồn gốc dân gian này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào vở kịch quan niệm đúng đắn về cách sống: Trước hết, mình hãy là mình. Cuộc sống của cá nhân chỉ thực sự có ý nghĩa khi biết sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi người, vì sự tốt đẹp của cuộc đời. Tư tưởng triết lí về con người của Lưu Quang Vũ vừa biện chứng vừa lạc quan, cao thượng. Tất cả những điều đó được thể hiện bằng tài năng sáng tạo hiếm có của tác giả khiến Vở kịch có sức cuốn hút lạ thường đối với khán giả. Lưu Quang Vũ xứng đáng là nhà biên kịch xuất sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại.