I. DÀN Ý

1. Mở bài:

+ Giới thiệu vài nét về tác giả:

- Lỗ Tấn (1881 - 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

- Ông là nhà văn cách mạng đầu tiên dùng ngòi bút để chữa các “căn bệnh tinh thần của quốc dân”, chỉ ra nguyên nhân trì trệ của xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX.

- Sự nghiệp sáng tác đa dạng, phong phú của Lỗ Tấn đã góp phần rất lớn thúc đẩy quá trình phát triển của văn học Trung Quốc hiện đại.

- Truyện ngắn Thuốc tập trung vào hai chủ đề: Phản ánh sự tê liệt về mặt tinh thần của dân chúng và bi kịch của những người cách mạng tiên phong thời đó. Tác giả mong muốn sẽ tìm ra phương thuốc chữa “căn bệnh tinh thần” của dân tộc Trung Hoa; đồng thời cũng gửi gắm trong tác phẩm niềm hi vọng vào tương lai Trung Quốc sẽ có một cuộc cách mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng.

2. Thân bài:

* Bối cảnh của truyện:

- Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đất nước Trung Quốc bị mấy đế quốc xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa, tình hình rất phức tạp và trì trệ. Lỗ Tấn viết Truyện ngắn Thuốc ngày 25 - 4 - 1919, đăng trên tạp chí Tân thanh niên đúng vào dịp phong trào cách mạng Ngũ Tứ nổ ra.

* Tóm tắt nội dung:

- Vợ chồng lão Hoa chủ quán trà có đứa con trai tên là Thuyên bị bệnh lao nặng. Nghe thiên hạ đồn rằng nếu cho ăn bánh bao tẩm máu tử tù chết chém thì sẽ khỏi bệnh nên vợ chồng lão dồn hết số tiền ít ỏi tích cóp được để mua thứ “thuốc” thần kì ấy cho con. Máu tẩm bánh bao làm thuốc cho Thuyên là máu của Hạ Du, một chiến sĩ cách mạng bị kết án chém đầu vì tội dám “làm giặc" chống lại chính quyền đương thời. Cuối cùng thì Thuyên vẫn chết. Kết thúc truyện là cảnh hai bà mẹ (mẹ Thuyên và mẹ tử tù) tình cờ gặp nhau ở nghĩa địa khi đi thăm mộ con vào tiết Thanh minh. Khi trời lạnh lẽo, những nấm mồ san sát, một vòng hoa tươi trên mộ tử tù, tiếng quạ kêu thảm thiết...

+ Ý nghĩa của tên tác phẩm Thuốc và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu:

- Thuốc là một cái tên mang tính đa nghĩa. Thuốc nghĩa đen là thuốc chữa bệnh lao làm bằng bánh bao tẩm máu người. Tên tác phẩm và hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu gắn bó chặt chẽ với nhau. Qua đó, tác giả phản ánh sự mê tín, lạc hậu của số đông dân chủng Trung Quốc thời ấy.

- Thuốc còn đề cập tới một vấn đề khác sâu xa hơn và khái quát hơn, đó là sự u mê, mông muội về chính trị - xã hội của quần chúng và bi kịch của những người cách mạng tiên phong không được dân chúng ủng hộ.

+ Cảnh lão Hoa mang tiền để mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù:

- Mọi người đồn đại là bảnh bao tẩm máu tử tù chết chém có thể chữa được hết mọi bệnh tật. Lão Hoa chủ quán trà cũng tin vào điều đó nên cố mua cho bằng được để chữa bệnh lao nặng cho con trai.

- Tác giả miêu tả đám đông chen lấn nhau để mua “thuốc” với chủ ý nhấn mạnh làm nổi bật sự mê muội đến mức đáng giận và cũng đáng thương của phần lớn dần chúng thời ấy.

- Cảnh vợ chồng lão Hoa ép con trai ăn hết chiếc bánh bao tẩm máu tử tù cũng tô đậm ý nghĩa trên.

+ Qua cuộc bàn luận trong quán trà, Lỗ Tấn muốn nói lên điều gì ?

- Bối cảnh: Quán trà của lão Hoa là nơi tụ họp thường xuyên của những khách bình dân. Tại đây, nội dung thông tin chẳng những rất phong phú mà còn rất thật.

- Khung cảnh quán trà gợi sự liên tưởng đến hình ảnh của xã hội Trung Quốc thu nhỏ.

- Nội dung câu chuyện của đám khách uống trà xoay quanh hai sự kiện: một là lão Hoa may mắn mua được “thần dược”; hai là chuyện Hạ Du bị chết chém. Thứ “thuốc tiên” để trị bệnh quỷ” mà người Trung Quốc vẫn tôn sùng lúc bấy giờ chính là bánh bao tẩm máu tử tù.

- Lão Hoa có con trai mắc bệnh lao nặng, lại gặp ngay dịp Hạ Du bị chém đầu. Cho nên hôm ấy ở quán trà người ta chỉ bàn tán xoay quanh hai sự kiện nóng hổi ấy. Vấn đề quan trọng cần xem xét là thái độ của mọi người ra sao?

- Về sự kiện thứ nhất: Mọi người đều mừng cho lão Hoa may mắn mua được “thần dược” và họ đặt niềm tin tuyệt đối vào phương thuốc kì quái ấy.

- Về sự kiện thứ hai: Đối với Hạ Du, họ tỏ thái độ khinh bỉ, dè bỉu không tiếc lời, dùng những lời lẽ xấu xa nhất để gọi anh. Trong khi đó, họ lại xuýt xoa khen ngợi cụ Ba đã sáng suốt báo cho chính quyền bắt cháu mình, vừa không bị mất đầu vì tội chứa chấp một tên phản nghịch, vừa được thưởng hai mươi lạng bạc trắng.

- Qua cuộc bàn luận ở quán trà, Lỗ Tấn khéo léo phơi bày thực trạng đời sống tinh thần u mê tăm tối của số đông dân chúng và sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng không triệt để. Người dân chưa được tuyên truyền, giác ngộ nên họ coi những người tham gia cách mạng là “làm giặc”. Họ càng không hiểu gì về mục đích của cuộc cách mạng.

+ Hình ảnh của những người cách mạng:

- Tuy Hạ Du chỉ được nói đến một cách gián tiếp nhưng nhân vật này đóng vai trò quan trọng như một mắt xích liên kết toàn bộ câu chuyện và chi phối các sự kiện khác trong tác phẩm. Thông qua lời lẽ của đám khách trong quán trà, người đọc hình dung ra một chiến sỹ cách mạng có ý chí kiên cường, dám chấp nhận thử thách, hi sinh. Xây dựng nhân vật Hạ Du, tác giả vừa bày tỏ thái độ trân trọng và kính phục, vừa ngầm phê phán những người làm cuộc cách mạng Ngũ Tứ chưa giác ngộ, tập hợp được đông đảo quần chúng.

+ Khung cảnh nghĩa địa và vòng hoa trên mộ Hạ Du:

- Hình ảnh nghĩa địa ở ngoại thành mang nhiều ý nghĩa: Thứ nhất, dư luận xã hội không hề có sự phân biệt giữa những người làm cách mạng hi sinh vì đất nước với những kẻ tội đồ nên khi chết họ đều bị chôn chung phía bên trái đường mòn. Như vậy, những chiến sĩ cách mạng cũng bị coi là “giặc”. Thứ hai, số người bị chết chém hoặc chết tù cũng nhiều như số người chết vì nghèo đói. Hình ảnh so sánh những ngôi mộ nhiều như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ gợi lên thực trạng vừa đen tối vừa tàn bạo của xã hội phong kiến Trung Hoa.

- Phải chăng Lỗ Tấn có ý nói rằng ranh giới giữa người nghèo và người cách mạng rất gần. Người cách mạng là ai nếu không phải là những người nghèo khổ bị áp bức bóc lột đến cùng cực, không còn con đường nào khác là phải tự vùng lên để giải phóng ? Nếu lúc còn sống họ chưa thật sự gắn bó, chưa hiểu nhau thì lúc chết, nghĩa địa này là nơi họ được ở gần nhau.

- Tình huống hai bà mẹ của hai đứa con chết thảm tình cờ gặp nhau ngoài nghĩa địa khi đi thăm mộ con tác động rất mạnh tới suy nghĩ và cảm xúc của người đọc. Cả người chết và những người đang sống đều là nạn nhân đau khổ, đáng thương của xã hội phong kiến Trung Quốc suy thoái, bế tắc đương thời.

- Câu hỏi của mẹ Hạ Du: Thế này là thế nào ? khi nhìn thấy trên nấm mồ của con mình có những cánh hoa trắng hoa hồng... không nhiều lắm, xếp thành vòng tròn, không lấy gì làm đẹp, những cũng chỉnh tề lặp lại hai lần như một điệp khúc gợi nhiều day dứt. Câu hỏi ấy thể hiện sự khó hiểu của bà mẹ vì ngay cả bà cũng không hiểu rõ ý nghĩa việc làm của con trai mình. Nó chứa đựng sự băn khoăn, đau khổ và tự trách.

- Câu hỏi trên không chỉ dành riêng cho bà mẹ Hạ Du mà còn dành cho tất cả mọi người. Ai đã đến đặt vòng hoa trên mộ Hạ Du ? Chắc chắn đó là những người cách mạng, hoặc có cảm tình với cách mạng. Họ đã bất chấp luật lệ nghiệt ngã của triều đình, vẫn can đảm bày tỏ tình cảm của mình đối với cách mạng qua hành động viếng mộ và kính cần đặt lên đó một vòng hoa tươi.

- Một trong số những người không sợ liên luỵ chính là Lỗ Tấn. Nhà văn đã bày tỏ thái độ kính trọng đối với những người cách mạng. Ông đã đặt một vòng hoa tưởng niệm trên mộ Hạ Du. Đó cũng là cách ông nêu lên vấn đề phải có một phương thuốc đặc biệt để cứu chữa căn bệnh tinh thần” của dân tộc Trung Hoa. Đó là con đường cách mạng, nhưng không phải là cuộc cách mạng nửa vời như cách mạng Tân Hợi mà là cuộc cách mạng triệt để của quần chủng và vì quần chúng.

- Hình ảnh vòng hoa trên mộ tử tù còn chứng tỏ tác giả vẫn ấp ủ hi vọng vào ngày mai tươi sáng, cho dù những người làm cách mạng đang bị chính quyền ráo riết khủng bố và bản thân tác giả cũng đang ở tâm trạng đau đớn, bàng hoàng. Đó cũng là niềm an ủi cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu. (Cách gọi của Lỗ Tấn đối với những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ Tử).

+ Thời gian nghệ thuật của truyện:

- Thời gian nghệ thuật của truyện được đặt vào hai thời điểm là mùa thu và mùa xuân. Hai nhân vật chất vào mùa thu như đồng nghĩa với sự tàn tạ vốn có của mùa thu. Hai cái chết của hai người trai trẻ có số phận khác nhau và cách họ chết cũng không giống nhau. Thế nhưng, đến mùa xuân, hai bà mẹ có chung nỗi đau khổ dường như đã đồng cảm với nhau. Đặt câu chuyện vào thời điểm của hai mùa: một mùa có tính chất tàn tạ, khép lại, một mùa có tính chất hồi sinh, mở ra, tác giả dường như muốn gửi gắm vào đó niềm hi vọng về sự đổi thay tất yếu của dân tộc Trung Hoa trong tương lai không xa.

3. Kết bài:

- Truyện ngắn Thuốc tiêu biểu cho bút pháp hiện thực tỉnh táo, khách quan của Lỗ Tấn. Cốt truyện dung dị nhưng độc đáo ở khả năng lựa chọn các tình tiết, ở cách sắp xếp thời gian nghệ thuật và đặc biệt là ở khả năng tạo ra tính đa nghĩa của ngôn từ và hình tượng.

- Câu chuyện có chung một âm điệu trầm buồn, thể hiện sự suy tư, nỗi lo lắng, day dứt, băn khoăn, khắc khoải đầy tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn trước số phận và tương lai của dân tộc mình. Có thể coi truyện ngắn Thuốc giống như con dao mổ sắc bén trong tay một bác sĩ tài ba, mạnh dạn cắt bỏ những khối u ác tính về tinh thần của xã hội đương thời để cứu lấy dân tộc Trung Hoa. Nhà văn Lỗ Tấn xứng đáng là cây đại thụ của văn học Trung Quốc, là Danh nhân văn hoá thế giới.

II. BÀI LÀM

Lỗ Tấn (1881 - 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Ông là nhà văn cách mạng thế hệ đầu tiên có phương châm và mục đích sáng tác đúng đắn là dùng ngòi bút để phanh phui các “căn bệnh tinh thần của quốc dân” - một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho xã hội Trung Quốc trở nên trì trệ và suy thoái. Sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn gồm 3 tập truyện ngắn, 16 tập tạp văn với các đề tài chính trị, xã hội, văn chương... Ông xứng đáng là ngọn cờ đầu của văn học Trung Quốc hiện đại. Truyện ngắn Thuốc sáng tác năm 1919 là tác phẩm thể hiện khá rõ những băn khoăn, day dứt của Lỗ Tấn trước những vấn đề quan trọng của xã hội Trung Quốc đương thời. Tác giả phê phán sự lạc hậu, mê muội đáng thương của số đông dân chúng và thái độ xa rời thực tế, xa rời quần chúng của những người khởi xướng và tham gia cuộc cách mạng Ngũ Tứ lúc bấy giờ. Đồng thời ông cũng gửi gắm trong truyện niềm hi vọng vào tương lai Trung Quốc sẽ có một cuộc cách mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng.

Bối cảnh của truyện là xã hội tăm tối, ngột ngạt dưới ách thống trị của triều đình Mãn Thanh trước khi nổ ra phong trào cách mạng Ngũ Tứ - sự kiện mở đầu cho lịch sử Trung Quốc hiện đại. Sự xâm chiếm và can thiệp thô bạo của một số đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật đã biến Trung Quốc thành một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Thời vàng son của các triều đại vua chúa đã lui vào dĩ vãng. Thay vào đó là một xã hội đình trệ, suy thoái mà theo nhận định của Lỗ Tấn: So Với tiến bộ thì đình trệ cũng gần với con đường diệt vong rồi.

Nội dung truyện xoay quanh chủ đề Thuốc - một thứ “thuốc” kinh khủng, gớm ghiếc hiếm có xưa nay. Đó là bảnh bao tẩm máu tươi của những kẻ tử tù bị chém đầu, đem nướng lên cho người bệnh ăn. Thiên hạ đồn rằng thứ thuốc ấy chữa khỏi được cả những bệnh thuộc “tứ chứng nan y” như phong, lao, cổ, lại. Vợ chồng lão Hoa chủ quán trà gom góp số tiền tích cóp đã lâu và lão Hoa đích thân đến tận pháp trường để mua “thuốc” cho con trai bị bệnh lao nặng, với hi vọng là nó sẽ khỏi bệnh. Nhưng đau xót thay, máu của tử tù chết chém không chữa được bệnh lao! Thế là tiền mất tật mang, cuối cùng đứa con trai độc định của vợ chồng lão Hoa vẫn chết.

Ngòi bút của Lỗ Tấn đã đề cập tới một vấn đề đáng lo ngại là tập quán chữa bệnh phản khoa học - một trong những biểu hiện của tình trạng lạc hậu về mặt khoa học ở Trung Quốc, cũng như trong đời sống tinh thần của dân chúng mà nhân vật Thuyện chỉ là một trong muôn ngàn nạn nhân của tập quán hủ lậu ấy. Tuy nhiên, Lỗ Tấn còn kín đáo gửi gắm dụng ý của mình trong nghĩa hàm ẩn của truyện. Con bệnh trầm kha không phải là anh chàng Thuyên tội nghiệp mà là đầu óc mê muội của vợ chồng lão Hoa nói riêng và số đông dân chúng nói chung. Theo nhận xét của tác giả thì cả xã hội Trung Quốc thời ấy giống như một người mắc bệnh nặng, đòi hỏi phải có một thứ “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa khỏi; đồng thời ông cũng chỉ ra rằng con đường đi của dân tộc Trung Hoa lúc này đã lâm vào ngõ cụt, cần phải nhanh chóng phát quang một con đường mới.

Truyện ngắn Thuốc giống như một vở kịch ngắn gồm bốn cảnh:

Cảnh thứ nhất: Lão Hoa mang tiền đến pháp trường để mua chiếc bánh bảo tầm máu tử tù.

Cảnh thứ hai: Vợ chồng lão Hoa cho con trai (Thuyên) ăn bánh bao tẩm. máu nướng.

Cảnh thứ ba: Khách khứa tụ tập bàn tán ở quán trà lão Hoa.

Cảnh thứ tư: Tiết Thanh minh, mẹ Thuyên ra thăm mộ con, tình cờ gặp mẹ của tử tù bữa trước.

Mở đầu tác phẩm, tác giả tả cảnh lão Hoa chủ quán trà dậy thật sớm, bảo vợ đưa tiền để đến pháp trường mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù về làm thuốc chữa bệnh lao cho đứa con trai duy nhất. Lỗ Tấn có cách kể chuyện xen miêu tả rất tự nhiên, sinh động. Nhiều chi tiết nhỏ nhưng lại có tác dụng kết nối, tạo mạch cho câu chuyện tiếp diễn theo trình tự thời gian. Chẳng hạn tràng họ không dứt của thằng Thuyên như thúc giục lão Hoa nhanh chóng lên đường lúc trời chưa sáng; hay lòng thương con và niềm hi vọng con sẽ khỏi bệnh khiến cho lão Hoa bước nhanh hơn. Lão Hoa mê muội tin vào thứ thuốc chữa bệnh lao quái dị: bánh bao tẩm máu tử tù nên cố lách vào đám đông hỗn độn đang xô đẩy nhau ào ào để mua cho bằng được thứ mà lão coi như thuốc tiên, có thể cứu mạng đứa con trai của mình. Thứ “thuốc” đáng sợ và hiếm có ấy được rao bán như bản các món hàng bình thường khác. Ngòi bút tả thực sắc sảo của Lỗ Tấn khiến người đọc cảm thấy như cảnh tượng hãi hùng ấy đang diễn ra trước mắt. Có một chi tiết mang ý nghĩa ẩn dụ là không phải chỉ một mình lão Hoa vội vàng đi mua bánh bao tẩm máu tử tù để chữa bệnh mà rất nhiều người khác cũng có ý định như lão. Qua chi tiết này, Lỗ Tấn muốn nói đến thực trạng đáng lo ngại: số đông dân chủng Trung Quốc đương thời vẫn tin vào những điều nhảm nhí không có cơ sở khoa học, bởi thói mê tín dị đoan đã tiêm nhiễm vào đầu óc họ, trở thành một căn bệnh tinh thần khó chữa.

Ở cảnh hai, niềm hân hoan, tin tưởng và hi vọng của lão Hoa mỗi lúc một dâng cao. Về đến nhà, lão cùng với vợ vội vàng chế biến “thuốc cải tử họ sinh” rồi cho con trai ăn chiếc bánh bao tẩm màu nướng đen thui. Thu cầm chiếc bánh lên nhìn, có cảm giác rất lạ không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay. Y bẻ đôi ra, rất cẩn thận... không bao lâu, chiếc bánh đã nằm gọn trong bụng... Lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì. Tác giả đã thể hiện tài tình diễn biến tâm trạng của từng nhân vật trong đoạn văn này. Cha mẹ Thuyên nhìn con ăn chiếc bánh bao mà lòng khấp khởi hi vọng, tin rằng con sẽ nhanh chóng khỏi bệnh. Họ muốn rót vào người con sự sống, đồng thời cũng muốn lấy ra căn bệnh lao đáng sợ mà người đời đã liệt vào hàng “tứ chứng nàn y”, ai mắc phải là cầm chắc cái chết. Vợ chống lão Hoa là những nhân vật vừa đáng thương vì tình phụ tử, mẫu tử của họ thật cảm động, nhưng lại vừa đáng giận bởi họ mê tín đến ngu muội. Hình ảnh đám đông trong quán trà của lão Hoa cũng phản ánh rất chân. thực về “căn bệnh tinh thần” của người Trung Quốc. Quán trà lão Hoa là nơi tụ họp thường xuyên của khách bình dân. Tại đây, lượng thông tin chẳng những rất phong phú mà còn rất thật.

Khách uống trà gồm một người râu hoa râm, cậu Năm Gù, bác cả Khang, một anh chàng hơn hai mươi tuổi... và một số người khác. Họ là những người thuộc số đông dân chúng Trung Quốc lúc bấy giờ. Quán trà của lão Hoa giống như xã hội Trung Quốc thu nhỏ. Đám khách uống trà bàn tán xoay quanh hai sự kiện nóng hổi: Thứ nhất là chuyện lão Hoa mua được “thần dược”; thứ hai là chuyện Hạ Du bị chết chém. “Thuốc tiên” để trị “bệnh quỷ” mà người Trung Quốc vẫn tôn sùng lúc bấy giờ chính là bảnh bao tẩm máu tử tù. Bánh bao thì luôn luôn có sẵn, nhưng còn máu tử tù ? Máu tử tù không sẵn nhưng cũng không phải là hiếm, chỉ cần có tiền là mua được, nhất là vào đúng dịp có tử tù bị chém. Lão Hoa có con mắc bệnh lao nặng, may mắn gặp ngay dịp Hạ Du bị chém đầu. Cho nên hôm ấy ở quán trà nhà lão Hoa, người ta chỉ bàn đến hai chuyện ấy cũng là điều dễ hiểu. Vấn đề quan trọng ở đây là thái độ của họ trước hai sự kiện này ra sao ?

Về sự kiện thứ nhất, mọi người đều mừng cho lão Hoa đã may mắn mua được “thần dược” và họ đặt niềm tin tuyệt đối vào phương thuốc kì quái ấy. Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà có tới sáu lần nhắc lại câu: Cam đoan thế nào cũng khỏi, giống lời khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột. Về sự kiện thứ hai, mọi người đều tỏ thái độ khinh bỉ, dè bỉu và dùng những lời lẽ xấu xa nhất để gọi Hạ Du: tên phạm, thằng quỷ sứ, thằng nhãi con, thằng khốn nạn... Họ coi anh là giặc, là dám vuốt râu cọp, là điên. Họ cho rằng anh bị chém đầu là đích đảng. Họ hả hê như chính mình vừa trừ khử được một kẻ tội đồ. Khi nghe kể đến đoạn Hạ Du bị lão Nghĩa quản ngục đánh cho hai cái bạt tại vì dám rủ lão “ làm giặc” thì họ thủ quá, cứ nhao nhao nói nói cười cười. Trong khi đó, họ lại xuýt xoa khen cụ Ba đã sáng suốt đem nộp cháu mình cho nhà chức trách, vừa không bị mất đầu vì chứa chấp một tên phản nghịch, vừa được thưởng hai mươi lạng bạc.

Qua cuộc bàn luận của đám đông ở quán trà, Lỗ Tấn khéo léo phơi bày thực trạng tinh thần u mê tăm tối của phần lớn dân chúng Trung Quốc thời đó. Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng không triệt để. Người dân chưa được tuyên truyền, giác ngộ nên họ coi những người làm cách mạng là “làm giặc”. Họ càng không hiểu gì về mục đích cao cả của cách mạng. Lỗ Tấn nhận thức rất rõ “căn bệnh tinh thần” của người Trung Hoa đã đến mức trầm trọng. Đã đến lúc phải khẩn cấp tìm ra một phương thuốc “đặc hiệu” để chữa trị căn bệnh ấy. Nhưng đó là phương thuốc nào ?

Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dò dẫm tìm đường, Lỗ Tấn cũng đang tìm đường. Ông chưa thể đưa ra một giải pháp chính xác, nhưng ông đã dự cảm được một điều gì đó. Dự cảm ấy phần nào được thể hiện qua hình tượng nhân vật Hạ Du. Hạ Du tuy không được tác giả miêu tả trực tiếp những nhân vật này đóng vai trò quan trọng là mắt xích liên kết toàn bộ câu chuyện và chi phối các sự kiện trong tác phẩm. Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng có ý chí kiên cường, dám chấp nhận thử thách, hi sinh. Đến phút chót anh vẫn tuyên truyền cách mạng. Hạ Du bộc lộ nỗi đau xót trước tình trạng mê muội của dân chúng. Nhưng thật đáng buồn là ý chí, mục đích và hành động của anh lại bị mọi người hiểu một cách sai lạc. Cụ Ba là người thân cho rằng anh “làm giặc” nên đã tố giác anh để lấy tiền thưởng. Dân chúng thì chờ anh bị chém đầu để lấy máu anh tẩm vào bánh bao làm thuốc chữa bệnh. Với những tên đạo phủ tàn bạo, tham lam thì máu Hạ Du là một món hàng đem lại lợi nhuận béo bở. Với đám đông dân chúng, Hạ Du là đối tượng để cho họ chế giễu và khinh bỉ. Thậm chí đến cả mẹ anh cũng không hiểu đúng về con trai mình. Xây dựng nhân vật Hạ Du, tác giả vừa bày tỏ thái độ trân trọng và kính phục, vừa ngầm phê phán những người làm cuộc cách mạng Ngũ Tứ xa rời và chưa giác ngộ được quần chúng. Thật xót xa và đau đớn trước hình ảnh người chiến sĩ cách mạng không hoà hợp được với quần chúng và còn bị dân chúng nhìn bằng con mắt miệt thị và giễu cợt. Chính vì thế mà sự hi sinh của họ trở nên vô nghĩa.

Trong phần cuối của truyện, khung cảnh nghĩa địa được Lỗ Tấn miêu tả rất kĩ: Miếng đất dọc chân thành phía ngoài cửa Tây vốn là đất công. Ở giữa là con đường mòn nhỏ hẹp, cong queo, do những người hay đi tắt giẫm mãi thành đường. Đó cũng là cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa những người chết chém hoặc chết tù, Ở về phía tay trái, và nghĩa địa những người nghèo, Ở về phía tay phải. Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ. Hình ảnh con đường mòn ở đây không chỉ đơn thuần là một ranh giới tự nhiên mà nó còn là ranh giới vô hình của lòng người, của những định kiến xã hội. Cảnh nghĩa địa trong đoạn văn mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất: Dư luận xã hội không hề có sự phân biệt giữa những người làm cách mạng hi sinh vì đất nước với những kẻ tội đồ. Như vậy thì những chiến sĩ cách mạng cũng bị coi là “giặc”. Thứ hai: số người bị chết chém hoặc chết tù cũng nhiều như số người bị chết vì nghèo đói. Hình ảnh những ngôi mộ ở nghĩa trang nhiều như bảnh bao nhà giàu ngày mừng thọ là một hình ảnh so sánh mỉa mai, gợi lên thực trạng xã hội phong kiến Trung Hoa vừa đen tối vừa tàn bạo thời ấy

Lỗ Tấn còn gửi gắm một hàm ý khác nữa trong hình ảnh con đường mòn chia đôi nghĩa địa: ranh giới giữa người nghèo và người cách mạng rất gần. Những người làm cách mạng là ai nếu không phải là tầng lớp nghèo khổ bị áp bức, bóc lột đến cùng cực, không còn con đường nào khác là phải tự vùng lên để giải phóng cuộc đời mình ? Nếu như lúc còn sống họ chưa thật sự hiểu nhau, gắn bó với nhau thì lúc chết, nghĩa địa này là nơi họ được ở gần nhau. Hai bà mẹ cùng ra thăm mộ con trong tiết Thanh minh. Đó là bà Hoa, mẹ của Thuyện và bà mẹ của Hạ Du - tử tù chết chém. Bà Hoa đặt lễ vật trước mộ con, khấn vái rồi khóc lóc một hồi. Bà kia cũng làm như vậy trước mộ con mình, chỉ khác là mộ của Thuyên ở bên phải đường mòn, còn ngôi mộ kia thì nằm bên trái đường mòn, gần như đối diện nhau. Tình huống này đã tác động rất mạnh tới suy nghĩ và cảm xúc của người đọc. Cả những người đã chết và những người đang sống đều là nạn nhân đau khổ, đáng thương của xã hội phong kiến Trung Quốc hủ bại, bế tắc đương thời. Câu hỏi đầy ngạc nhiên và băn khoăn của bà mẹ Hạ Du: Thế này là thế nào ? khi nhìn thấy trên nấm mồ con trai mình có những cánh hoa trắng hoa hồng... không nhiều lắm, xếp thành vòng tròn, không lấy gì làm đẹp, những cũng chỉnh tề lặp lại hai lần gợi nhiều day dứt. Câu hỏi ấy thể hiện thái độ khó hiểu của bà mẹ trước hành động tham gia cách mạng và cái chết bị thảm của con trai mình; đồng thời chất chứa cảm xúc chua xót, đau khổ và tự trách. Đó không chỉ là câu hỏi dành riêng cho bà mẹ Hạ Du mà còn dành cho tất cả mọi người. Ai đã đến đây ? Chắc chắn đó là đồng chí của Hạ Du, hoặc là người có cảm tình với cách mạng. Họ đã bất chấp luật lệ nghiệt ngã của chính quyền, vẫn can đảm bày tỏ tình cảm của mình đối với cách mạng. Họ dám đến viếng mộ anh và còn kính cẩn đặt lên đó một vòng hoa tươi : ... hoa trắng, hoa hồng xen lẫn nhau nằm khoanh trên nấm mộ khum khum.

Một trong số những người không sợ liên lụy chính là Lỗ Tấn. Nhà văn đã bày tỏ thái độ kính trọng đối với các chiến sĩ của phong trào cách mạng Ngũ Tứ. Ông đã đặt vòng hoa tưởng niệm trên mộ Hạ Du. Đó cũng là cách ông nêu ra vấn đề cấp thiết là phải có một phương thuốc đặc trị để cứu chữa “căn bệnh tinh thần” của người Trung Quốc. Phương thuốc đó quyết không phải là cái gì khác ngoài con đường cách mạng, nhưng không nửa vời như cuộc cách mạng Tân Hợi mà là cuộc cách mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng. Hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du còn chứng tỏ nhà văn Lỗ Tấn vẫn ấp ủ hi vọng vào ngày mai tươi sáng, cho dù những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ Tứ đang bị chính quyền ráo riết khủng bố và bản thân tác giả cũng đang ở tâm trạng đau đớn, bàng hoàng. Nó làm cho cái chết của Hạ Du bớt phần bi thảm bởi vì dù sao thì cũng có người xúc động và hiểu được phần nào ý nghĩa cái chết của anh. Đó cũng là niềm an ủi cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu. (Cách gọi của Lỗ Tấn đối với những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ Tứ).

Câu chuyện về Thuốc được miêu tả ở hai thời điểm là mùa thu và mùa xuân. Hạ Du và Thuyên chết vào mùa thu, đồng nghĩa với sự tàn lụi. Hai cái chết của hai người trai trẻ có số phận khác nhau và cách họ chết cũng không giống nhau. Thế nhưng, đến mùa xuân, hai bà mẹ có chung nỗi đau mất con dường như đã đồng cảm với nhau. Đặt câu chuyện vào thời điểm của hai mùa: một mùa có tính chất tàn tạ, một mùa có tính chất hồi sinh, tác giả dường như muốn gửi gắm vào đó niềm hi vọng về sự đổi thay tất yếu. Dù không có những biểu hiện thật rõ ràng, song với cách kết cấu và thời gian nghệ thuật đầy ý nghĩa tượng trưng, tác giả đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin, một niềm hi vọng về tương lai tươi sáng của dân tộc mình.

Truyện ngắn Thuốc tiêu biểu cho bút pháp hiện thực tỉnh táo, khách quan của Lỗ Tấn. Cốt truyện dung dị nhưng độc đáo ở khả năng lựa chọn các tình tiết, ở cách sắp xếp thời gian nghệ thuật và đặc biệt là ở khả năng tạo ra tính đa nghĩa của ngôn từ và hình tượng. Câu chuyện có chung một âm điệu trầm buồn thể hiện sự suy tư, lo lắng, day dứt đầy tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn trước số phận và tương lai của dân tộc mình. Có thể coi tác phẩm này giống như con dao mổ sắc bén trong tay một bác sĩ tài ba, mạnh dạn cắt bỏ những khối u ác tính về tinh thần của xã hội đương thời để cứu lấy dân tộc Trung Hoa. Nhà văn Lỗ Tấn xứng đáng là cây đại thụ của văn học Trung Quốc và Danh nhân văn hoá thế giới.