I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Nhà văn Kim Lân (1920 - 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1944, ông tham gia Hội Văn hoá cứu quốc, hoạt động văn nghệ phục vụ cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp. Kim Lân được Nhà nước tặng Giải thưởng về văn học và nghệ thuật năm 2001.

- Kim Lân là cây bút chuyên viết về đề tài nông thôn. Ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí tầng lớp nông dân nghèo khổ, những con người thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa.

- Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, viết ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945, ra mắt bạn đọc năm 1954. Qua truyện, tác giả giúp người đọc hình dung rõ ràng về nạn đói khủng khiếp mùa xuân năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra; đồng thời thấy rõ khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.

2. Thân bài:

* Tóm tắt nội dung:

- Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ bằng mấy câu bông đùa mà nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Bữa cơm cưới chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối. Mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong những hồi trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức dân chúng không đóng thuế, phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Trăng hiện lên hình ảnh của đoàn người đói kéo nhau đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới...

* Nhan để Vợ nhặt:

- Nhan đề Vợ nhặt đã tạo được ấn tượng lạ, thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ theo không, chẳng phải ăn hỏi, cưới xin gì. Chỉ riêng hai chữ vợ nhặt cũng đã nói lên khá nhiều về cảnh ngộ, số phận của Tràng và của người đàn bà khốn khổ. Câu chuyện Tràng nhặt được vợ phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

* Tình huống độc đáo của truyện Vợ nhặt:

- Trước tiên, truyện thành công ở chỗ là tác giả đã tạo được tình huống độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo túng, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc.

- Tình huống trên được thể hiện qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà. Họ ngạc nhiên bởi nghèo và xấu như Tràng mà vẫn có người lấy và giữa thời buổi đói khát này, đến nuôi thân chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy vợ.

- Bà cụ Tử mẹ Tràng sửng sốt không tin rằng con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính Tràng cũng ngạc nhiên không ngờ mình có vợ dễ dàng đến thế.

- Nếu không rơi vào tình cảnh đói khát đến sắp chết thì chẳng ai thèm lấy Tràng. Đau xót ở chỗ đây là cô vợ nhặt, chẳng cần cưới xin gì. Trong tình cảnh cơ cực như thế, mọi nghi lễ thủ tục đều có thể bỏ qua, cho nên Tràng mới có được vợ.

- Tất cả là do nạn đói khủng khiếp gây ra. Sức tố cáo của tác phẩm đối với tội ác của thực dân, phát xít tuy kín đáo nhưng thật mạnh mẽ, sâu sắc.

- Tình huống vừa lạ lùng vừa hết sức éo le nói trên là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Truyện có ba nhân vật: Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt.

* Tâm trạng của các nhân vật:

+ Nhân vật Tràng:

- Tràng là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, đã đứng tuổi mà vẫn chưa lấy được vợ, sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông.

- Tràng gặp người đàn bà ấy có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh. Lần thứ nhất, họ chỉ đùa bỡn vài câu. Lần sau gặp lại, anh nhận không ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta sỗ sàng gợi ý anh mời ăn. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc. Thấy chị ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương, bảo: Này, nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

- Tràng nói đùa mà chị ta theo về thật khiến Trang chọn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng anh tặc lưỡi : Chặc, kệ !

- Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui cứ dâng lên không ngờ. Đó là niềm vui to lớn nhất đời: anh đã có vợ. Chưa từng trải nhiều nên Tràng chưa hiểu những điều đáng lo ngại đang chờ vợ chồng anh trong tương lai.

- Sự kiện bất ngờ có được cô vợ nhặt làm thay đổi cuộc đời và số phận của Tràng. Trên đường dẫn “vợ” về nhà, Tràng như đã thành một con người khác. Quyết định đột ngột này thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn ông nghèo khổ.

- Sáng hôm sau, Tràng thực sự thấy cuộc đời mình từ đây đã thay đổi hẳn. Niềm vui sướng, hạnh phúc của Tràng gắn liền với ý thức về bổn phận, trách nhiệm đối với gia đình.

- Nhu cầu xây dựng tổ ấm gia đình là bản năng tự nhiên của con người. Nhờ sự có mặt của người vợ nhặt mà gia đình Tràng thật sự thành một tổ ấm. Mọi người bỗng thấy gắn bó hơn và có trách nhiệm hơn.

+ Nhân vật vợ nhặt:

- Người đàn bà trong truyện không tên, không tuổi, cả đến đặc điểm nhận dạng cũng không nốt. Hình dáng bên ngoài của chị ta giống như bao kẻ đói khát khác.

- Chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa. Tràng tình cờ nhặt được chị ta như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường.

- Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu ghẹo của bạn bè. Lần thứ hai gặp Tràng, chị bạo dạn gợi ý để Tràng mời ăn và ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Chị đói đến mức quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng.

- Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, vậy mà chị ta đi theo một cách dễ dàng, không đắn đo, sợ hãi. Chị chấp nhận theo không” một người đàn ông xa lạ trước mắt là để khỏi chết đói chứ chưa có tình cảm gì. Trên đường về nhà Tràng, chị ta chẳng biết nói gì, chỉ cúi mặt ngượng nghịu khi thấy mọi người nhìn mình.

- Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mởm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Trăm mối ngổn ngang trong lòng chị. Đến khi gặp bà cụ Tứ, chị tỏ ra ngại ngùng, khép nép.

- Chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hoá ra khác hẳn. Hạnh phúc vợ chồng đã đem đến cho người vợ nhặt một sự đổi thay thật sự ; điều đó làm cho Tràng ngạc nhiên, vui sướng. Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tối tăm của mẹ con Tràng bỗng sáng sủa, gọn ghẽ, ấm áp hẳn lên.

+ Nhân vật bà cụ Tứ:

- Là một bà mẹ nghèo khổ có tấm lòng nhân hậu. Tâm trạng bà cụ Tứ đầy mâu thuẫn. Lúc đầu, thấy người đàn bà xa lạ ngồi ở giường con trai mình, bà cụ ngạc nhiên lắm. Khi nghe Tràng giới thiệu đó là vợ mình, bà cụ mới vỡ lẽ, vừa mừng vừa lo.

- Bà cụ lo nhiều hơn vì Tràng lấy vợ vào lúc này quả là đèo thêm một gánh nặng, chẳng biết có chịu nổi không. Mặt khác, làm mẹ mà không lo cưới được vợ cho con, nay nó tự kiếm được cô vợ nhặt, bà vừa mừng vừa tủi. Nhưng nghĩ rằng người ta có đói khát mới lấy đến con mình, nên lẫn với cái lo, cải tủi, bà cụ còn có tâm trạng vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình.

- Bà tủi thân tủi phận làm cha mẹ mà không tròn bổn phận với con cái, nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo khó của hai mẹ con, bà lại tự an ủi nên vui lòng chấp nhận nàng dâu mới.

- Trong bữa ăn đầu tiên của ba người, dẫu chỉ có rau chuối, chảo loãng với muối nhưng bà toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen nhóm niềm tin, niềm vui sống cho các con.

- Sống kề bên cái chết, vậy mà những người nghèo khổ như mẹ con anh Tràng vẫn le lói niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Đó là điều rất đáng trân trọng.

3. Kết bài:

- Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn Kim Lân. Ông có cách dựng truyện tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ.

- Trong truyện, người và cảnh đan cài vào nhau, cái xấu xí bên ngoài tương phản với bản chất đẹp đẽ bên trong, sự sống tương phản với cái chết... Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của truyện.

- Nhà văn khẳng định sự đói khát, cơ cực không lấn át được bản tính tốt đẹp của con người, hiện thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong cải cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, người nghèo vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn ảnh lên hi vọng vào sự đổi đời, vào một tương lai tốt đẹp.

- Truyện Vợ nhặt gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bởi tính nhân văn cao cả, bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu khả năng gợi tả.

II. BÀI LÀM

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ của người nông dân hoặc các sinh hoạt văn hoá truyền thống ở thôn quê.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng hiện thực mà ông hiểu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông thôn. Tác phẩm chính : Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng đến sau hoà bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con chó xấu xí.

Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời gian xảy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả chính sách cai trị dã man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương tàn bạo “nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận bất hạnh. Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp, phát xít Nhật; đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.

Tóm tắt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối. Mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món chè nấu bằng cảm. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Trăng hiện lên hình ảnh của đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...

Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ theo không, chẳng cưới xin gì. Tựa đề khá lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về cảnh ngộ, số phận của nhân vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.

Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình huống độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng ! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt này qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn bà lạ. Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.

Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy con người vào chỗ chết nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác của bọn đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê tởm và tình cảnh cơ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.

Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của truyện là nạn đói năm 1945, bối cảnh nhỏ là cải xóm ngụ cư tồi tàn vẹn chợ. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương. Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bị theo anh, đứa túm đằng trước, đứa tủm đằng sau, đứa cù, đa kéo, đứa lôi chân không cho đi... Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ thì niềm vui nhỏ nhoi ấy không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng... Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không buồn nhúc nhích... Nụ cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt : Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhằn chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn... Đâu đâu cũng thấy cảnh: Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cải thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi, đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.

Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp ngụ cư tủi nhục trăm bề. Họ bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc bị coi là hèn hạ như đầy tớ, thằng mõ... Dân địa phương dù nghèo đến mấy cũng không chịu gả con gái cho đám ngụ cư vì cho rằng như thế là vô phúc. Đã thế Tràng lại còn xấu xí: ...hai con mắt nhỏ tí... quai hàm bạnh ra... bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ tợn... cái đầu trọc nhằn chúi về đằng trước... cải lưng to rộng như lưng gấu... Vì thế nên anh đã đứng tuổi mà vẫn không sao lấy được vợ. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh. Lần thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp lại, Tràng không nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta mãi anh mới nhớ ra và toét miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý: Ăn gì thì ăn chứ chả ăn giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lòng thương, liền bảo: Này, nói đùa chứ có về với tỷ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên không ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có Vợ là không bình thường, là bất hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ... Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chỉ ít cũng phải là người bình thường, khoẻ mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia? Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chọn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng anh tặc lưỡi: Chặc, kệ ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khoẻ tay, lại có công ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ . người đàn bà kia chết đói cho đành?!

Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà còn may mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa chị ta vào chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thùng đựng mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về nhà. Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình thương mà còn có niềm vui sướng, háo hức. Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Cái phút ban đầu bao giờ chả thế, Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay đã là thật rồi, khó biết mấy ! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu ? Tràng lúng túng là phải. Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi: Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ... Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy... Đúng là thế. Đó là niềm vui to lớn. nhất đời: anh đã có vợ. Tình cảm của anh đối với người đàn bà xa lạ kia không chỉ là thương hại, cưu mang mà còn là lòng biết ơn bởi chị ta đã chịu làm vợ anh mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Nhờ thế anh mới có được vợ và cuộc đời anh mới đổi khác. Từ nay, anh không còn phải sống thui thủi một mình một bóng nữa. Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư xóm chợ... xác xơ, heo hút... Hai bên dãy phố úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng qua trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết...

Bức tranh ngập tràn tử khí, ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo hút, úp súp, tối om... chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi chúng đã đánh hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đều đang lâm vào thế lụi tàn, tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn này. rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình : anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị! Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái cảnh Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén, e thẹn, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt... làm cho mọi người tò mò kéo ra xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cái lạ lùng đã thắng cái đói, trả lại tính vui đùa hồn nhiên vốn có của chúng. Một đứa đột ngột gào lên: Anh Tràng ơi ! Chông vợ hài ! khiến Tràng phải bật cười chửi yêu: Bố ranh ! mà trong bụng thì khoái lắm. Tiếp theo lũ trẻ là bà con xóm chợ ai cũng thấy lạ. Họ bàn tán... Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cải xóm ngụ cư đang hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.

Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: Ôi chao ! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không ? Ấy là họ lo cho cái sống đang phải đối mặt từng ngày với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết. Hai người về đến nhà Tràng. Cải tổ ấm của họ ra sao trong đêm tân hôn ?! Sự sống được tiếp nối như thế nào? Cái gọi là nhà đúng ra chỉ là túp lều vắng teo... rúm ró. Trong lều, niêu bát, xống áo... bừa bộn trên giường, dưới đất... Khung cảnh hoang tàn, vắng lạnh. Tràng chợt có cảm giác sờ sợ người đàn bà ngồi bất động ở đầu giường như một bóng ma... Có cái gì đó kì dị như trong truyện ma quỷ thời xưa. Đến đêm, cảnh tượng lại càng lạ lùng hơn nữa. Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc. Hai vợ chồng nằm bên nhau, đành giấu những gì yên và vui vào bóng tối. Nhưng bóng tối cũng không yên mà hãi hùng, đáng sợ bởi đây tiếng hờ khóc tỉ tê... vẳng ra từ những nhà có người chết đói. Lấy vợ lấy chồng là việc lớn một đời, là hạnh phúc trăm năm. Ấy thế mà đây, chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người lại bị bủa vây bởi cái đói và cái chết. Buổi chiều là tiếng quạ kêu, là bóng người dật dờ như bóng ma, ban đêm là tiếng hờ khóc người chết... Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi nảy nở. Bị thương cùng cực thành dữ dội. Có cái gì đó giống như một cảnh trong bi kịch của Sếch-xpia hay trong tiểu thuyết Đô-xtôi–ép–xki: dữ dội, kinh khủng nhưng thật sâu sắc, lớn lao. Sự sống cử tồn tại, bất chấp cái chết. Rõ ràng, ý chí con người và quy luật cuộc đời mạnh mẽ biết là chừng nào!

Sau một đêm, Tràng thấy mình hoàn toàn đổi khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải... Mình đã có vợ thật rồi sao ? Ai vậy ? Cưới bao giờ nhỉ ? Không lẽ mong ước bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến thế ư? Chuyện xảy ra cứ như trong mơ, thật khó tin, nhưng cái cảm giác êm ái lửng lơ lạ lùng chưa từng thấy vẫn đang tồn tại trong người và rõ ràng trước mắt, người đàn bà bằng xương bằng thịt kia là vợ a

Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cô vợ (không nghiêm túc về mặt hình thức) giờ đã trở thành chuyện hoàn toàn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa vợ chồng. Cái bên ngoài không đẹp ấy lại chứa đựng một nội dung thật đẹp, thật cảm động. Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình là bản năng của con người. Buổi sáng sau đêm đầu tiên Tràng có vợ, không khí gia đình anh trở nên khác hẳn. Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của anh mới thật sự là một tổ ấm. Trước kia, mẹ con Tràng chỉ sống tạm bợ cho qua ngày. Nay ai cũng có trách nhiệm hơn với nhà cửa, vườn tược của mình. Nhìn vợ và mẹ đang dọn dẹp, Tràng bỗng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Tâm trạng này diễn ra ở một người như Tràng mới thật cảm động. Người ta lấy vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu, nhưng với Tràng thì đó là cả một ước mơ lớn tưởng chừng không bao giờ thực hiện được. Giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm chính là ở chỗ tác giả đã phát hiện, đồng cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất con người này ở những thân phận nghèo khổ trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của người dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng.

Bên cạnh Tràng, người vợ nhặt cũng là một nhân vật trung tâm của truyện. Người đàn bà ấy không có đến một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, cả đến đặc điểm nhận dạng cũng không nốt. Chẳng ai biết gốc tích của chị ở đâu ? Cha mẹ là ai? Nhà cửa, anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết là ngày ngày, chị ngồi lẫn trong đám con gái trước cửa kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ ai có việc gì thuê mướn thì làm. Hình thức của chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ đỉa... trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt... Chị ta là một trong hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, lang thang vất vưởng kiếm ăn và sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ bất cứ lúc nào. Việc chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa, là chuyện tầm phơi tầm phào đâu có hai ba bận, thế mà thành vợ thành chồng. Xưa nay, hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải có cưới xin tử tế. Giàu thì làm lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có mâm cơm trình tổ tiên, ông bà rồi mới nhận vợ, nhận chồng. Vợ thì cũng năm bảy loại. Có loại quý hoả như cô tiểu thư con quan trong Lí ngựa ô, đem lại danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao công sức, tiền của mới cưới được... Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ theo (theo không, chẳng cưới hỏi gì). Xã hội, gia đình không chấp nhận những cuộc hôn nhân như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn bà trong truyện lại là vợ nhặt - Tràng tình cờ nhặt được chị như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường. Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu ghẹo của bạn bè. Chị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít. Chuyện đùa giỡn chỉ có vậy nên người đàn bà này không để lại dấu ấn gì trong trí nhớ của Tràng. Vì thế, gặp lần thứ hai, anh không nhận ra chị ta bởi: Hôm nay thị rách quả, áo quần tả tơi... gầy sọp hẳn đi... Chị ta đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan. Chị ta sỗ sàng gợi ý để Tràng mời ăn và ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cắm đầu mà ăn, không chuyện trò gì, mải mê như chưa từng được ăn bao giờ. Quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, đẩy lùi nhân cách. Ăn như thế là đói lâu rồi, nay chỉ cần có chút gì cho vào bụng để sống. Cảnh ấy khiến Trang động lòng thương. Anh buột miệng nói: Này, nói đùa chứ có về với tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về ! Tràng chỉ đùa, ai ngờ chị ta theo về thật.

Người đàn bà ấy đi theo Tràng trước hết chỉ vì miếng ăn chứ chẳng có tình cảm gì. Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường về nhà “chồng”, chị ta chả biết nói gì và tỏ ra ngượng ngùng khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư nhìn mình bằng ánh mắt tò mò. Chị ta chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí chỉ là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói. Lâm vào tình cảnh éo le ấy, chị ta vừa ngượng ngùng vừa tủi phận. Lúc gặp bà cụ Tứ, chị e sợ, khép nép, chẳng biết nói năng, chào hỏi thế nào cho phải. Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no ngoài ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ (biết là thật hay giả), vậy mà đi theo một cách dễ dàng, không đắn đo, sợ hãi. Có liều lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã. Vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!

Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Anh Tràng mời chị ngồi cơ mà ? Sao chị không dám ngồi cho ngay ngắn, đàng hoàng ? Mẹ anh chưa về, có ai đâu mà giữ lễ ? Hoá ra cái dáng ngồi rụt rè, chông chênh ấy kì thực cũng là cái thế của lòng chị, đời chị. Liệu chỗ ngồi này có phải là chỗ của chị không ? Mái nhà này có phải là nơi để chị dung thân không? Chị bần thần vì ngỡ như mọi chuyện vừa xảy ra không phải là thực. Làm vợ, làm dâu mà đến thế này ư ? Lấy chồng, cái hạnh phúc lớn nhất của đời con gái ấy, chị có được hưởng chút nào đâu ? Buồn lắm! Tủi lắm! Trăm mối ngổn ngang. Chị không nói được nên lời, bởi cất tiếng, chắc chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra theo nước mắt mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.

Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hoá ra khác hẳn: Tràng nom thì hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh... Hoàn cảnh sống nghiệt ngã biến chị ta có lúc thành kẻ trâng trào, nhưng bản chất thì không phải như vậy. Nếu hôm qua, cái đói làm mất đi những gì tốt đẹp ở chị thì hôm nay, chị bắt đầu có ý thức vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang... Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối của mẹ con Tràng bỗng trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Cái hạnh phúc đơn sơ mà đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình dáng và tính cách của người đàn bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ.

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng là nhân vật gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc. Tấm lòng nhân hậu của bà mới đáng quý làm sao! Lúc đầu, thấy người con gái xa lạ ngồi ở giường con trai mình, bà ngạc nhiên lắm. Được chào bằng u, bà càng chẳng hiểu gì và cố nhìn cho kĩ mà vẫn không nhận ra chị ta là ai. Bà phân vân, đoán định... Mãi đến lúc Tràng bảo: Kia, nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp con mình... Ra thế! Thằng con mình nó đã kiếm được vợ, nhưng... Bà tủi thân tủi phận là cha mẹ mà không làm tròn bổn phận đối với con cái. Trăm sự cũng tại cái nghèo mà ra cả : Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... Bà lo lắng thực sự : Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không ? Nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo khó của hai mẹ con, bà lại tự an ủi: Người ta có gặp bước khó đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Nghĩ thế nên bà vui lòng chấp nhận nàng dâu mới. Bà cư xử với chị dịu dàng, âu yếm gọi chị là con, xưng u và bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu con trong nhà rồi...

Với tâm lí của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cũng tổ tiên ông bà, sau mời làng mời xóm. Nhưng ao ước ấy không thể thực hiện được vì bà nghèo quá. Bà rất biết trước biết sau, song cái khó bỏ cải khôn, bà đành chịu. Bà chỉ biết nói với các con những lời khuyên nhủ chân tình: Cốt làm sao cho chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá. - Con trai tự dưng có được vợ, bà lão mừng lắm : Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão sắm sắn thu dọn, quét tước nhà cửa... Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất ?! Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu nay cứ canh cánh bên lòng. Trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo loãng với muối hột nhưng bà toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tạo tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...

Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền của dân tộc. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen nhúm niềm tin, niềm vui sống cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí mãnh liệt: Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:

- Chè đây... Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.

Rồi bà múc trao cho con dâu, con trai, miệng vẫn tươi cười, đon đả : Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy... Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà khen ngon đáo để và so sánh: Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy. (Vậy có cám mà ăn như thế này là còn may lắm !) Chao ôi là khổ ! Phải đói đến mức nào thì mới ăn cảm thấy ngon ? Cuộc sống khắc nghiệt đày đoạ con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, song nó không dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn thành vui. Bà cố tươi cười, đon đả cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, còn tác giả và chúng ta thì khóc, khóc vì thương, vì quý tấm chân tình của bà.

Sống giữa cái chết ngày càng che phủ bóng đen gớm ghiếc của nó vào mọi gia đình, vậy mà những người nghèo khổ như mẹ con Tràng vẫn tin vào cuộc sống, vào tương lai: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Bà cụ Tứ cứ tin vụ vợ như thế. Vì miếng cơm manh áo, họ buộc phải vượt lên mọi gian nan, khổ ải để sống nên mới có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy. Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua tạo đoạn ngặt nghèo trước mắt. Tình cảm ấy rất cần những chưa đủ để đảm bảo cho ba người một tương lai tốt đẹp hơn. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám xịt, đầy đe doạ và chết chóc : Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn qua trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen...

Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như không mà luồn lách ngòi bút động đến tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân vật của mình. Trong suốt truyện, tác giả không một lần trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, phát xít Nhật và bè lũ phong kiến tay sai nhưng tội ác của chúng vẫn hiển hiện, phơi bày trên từng trang viết và được gói gọn trong câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ già : Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... Người con dâu nhắc chuyện trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng không đóng thuế, lại còn tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo... Điều ấy gợi cho Tràng nhỏ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên để Sộp. Đằng trước Có lá cờ đỏ... và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy. Tràng chưa được giác ngộ cách mạng nên lúc chứng kiến cảnh đó anh thấy sợ. Giờ hiểu ra, anh lại ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu... Bước đầu, anh thấy rằng cần phải làm như thế vì không có cách nào khác. Tin rằng lần sau, trong đoàn người phả kho thóc của Nhật, thế nào cũng có mặt vợ chồng Tràng. Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới đem đến cho Tràng bao hi vọng vào sự đổi đời. Đó là ý nghĩa dự bảo cách mạng của tác phẩm này.

Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân. Cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen, tương phản với nhau. Bản chất đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên ngoài, sự sống tương phản với cái chết... Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của truyện. Tác giả không miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cải bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Viết truyện này, tác giả bày tỏ thiện cảm sâu sắc đối với họ. Ông khẳng định sự đói khát, không tiêu diệt được bản tính tốt đẹp của con người, hiện thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong cuộc sống cơ cực, đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng vào sự đổi đời và một tương lai tốt đẹp. Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính chất nhân văn cao cả, bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm lòng của tác giả gửi gắm trong truyện đáng quý biết chừng nào !