I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Vai trò của người thầy rất quan trọng và nghề dạy học được xã hội tôn vinh là nghề cao quý nhất.
- Trong thời đại ngày nay, truyền thống ấy luôn luôn được gìn giữ và phát huy.
2. Thân bài:
* Thế nào là tôn sư trọng đạo?
- Tôn: tôn trọng; sư : thầy, người dạy dỗ chữ nghĩa, đạo lí.
- Tôn sư trọng đạo : Tôn vinh, đề cao người thầy, kính trọng đạo học, đạo lí.
* Những biểu hiện của truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc ta.
+ Trong lịch sử:
- Từ xa xưa, người Việt đã có tinh thần hiếu học. Điều đó thể hiện trong ca dao, tục ngữ : Không thầy đố mày làm nên, Nhất tự vi sư, bán tự vi sư, Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy... Dù nghèo khổ, túng thiếu, dân chúng vẫn muốn cho con cái được học hành để biết chữ nghĩa, đạo lí thánh hiền, đạo lí làm người.
- Nhiều địa phương trong cả nước nổi tiếng là đất học (Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Nghệ An, Huế, Quảng Nam...). Nhiều họ tộc có truyền thống học hành, đỗ đạt qua nhiều đời...
- Các bậc vua chúa cũng có ý thức tôn sư trọng đạo, thường mời những bậc thầy nổi tiếng về triều dạy dỗ cho các hoàng tử, công chúa...
- Cách đây hơn tám trăm năm, ở nước ta đã có trường Đại học đầu tiên là Quốc Tử Giám đặt tại kinh thành Thăng Long. Một nền giáo dục học đường được tổ chức nghiêm minh từ việc học hành tới thi cử đã cung cấp nhiều nhân tài cho đất nước.
- Xưa nay, dân tộc ta vẫn tôn vinh những người có trình độ học vấn cao, có tài đức: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Các bậc hiền tài có mối quan hệ chặt chẽ với sự hưng vong của đất nước. Những vị đỗ tiến sĩ được khắc tên vào bia đá để lưu danh muôn thuở.
- Nền giáo dục Việt Nam xưa lấy đạo lí làm mục tiêu và nội dung giáo dục: Tiên học lễ, hậu học văn... Lễ là lễ nghĩa, là đạo lí dân tộc trong quan hệ xã hội, gia đình, thầy trò và đồng môn...
+ Trong thời đại ngày nay:
- Truyền thống giáo dục Việt Nam là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với dân tộc vừa đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn lịch sử mới. Truyền thống tôn sư trọng đạo vẫn được gìn giữ và phát huy. Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 - 11 hàng năm được tổ chức trọng thể.
- Việc giáo dục đạo đức luôn luôn được coi trọng. Song song với việc dạy kiến thức cho học sinh, nhà trường dạy những điều cơ bản về đạo đức truyền thống kết hợp với những yêu cầu về đạo đức của thời đại qua các môn Ngữ văn, Lịch sử, Giáo dục công dân và các hình thức khác trong và ngoài chương trình giảng dạy.
3. Kết bài:
- Tôn sư trọng đạo là truyền thống tốt đẹp có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam.
- Trên con đường đến với tri thức nhiều khó khăn, gian khổ, thầy giáo vừa là người dẫn đường chỉ lối, vừa là người bạn thân thiết của mỗi chúng ta.
II. BÀI LÀM
Từ xưa, nhân dân ta đã coi trọng vị trí của người thầy trong xã hội. Có biết bao câu ca dao, tục ngữ thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo, ví dụ như: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư, Không thầy đố mày làm nên ; Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Theo quan niệm của Nho giáo thì vị trí người thầy được đề cao chỉ sau vua và trên cả cha mẹ (quân, sư, phụ). Truyền thống tôn sư trọng đạo ngày này vẫn được nhân dân ta gìn giữ và phát huy, tuy hình thức đã có nhiều thay đổi.
Vậy thế nào là tôn sư trọng đạo ? Tôn là tôn vinh, kính trọng; sự là thầy, là người làm nghề dạy học; trọng là coi trọng, đề cao ; đạo là đạo học, là đạo đức, lễ nghĩa. Dân tộc Việt Nam nghèo nhưng có tinh thần hiếu học. Tổ tiên chúng ta thuở trước đã có nhận thức rất đúng đắn rằng: Ngọc bất trắc bất thành khí, Nhân bất học bất trị lí (Ngọc không mài không sáng, người không học thì không biết thế nào là lí lẽ phải, trái, đúng, sai). Vì thế muốn nên người thì phải học hành chữ nghĩa và đạo lí thánh hiền. Nhiều nhà nghèo không đủ cơm ăn, áo mặc vẫn cố gắng cho con đi học. Những gương sáng về tinh thần hiếu học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn, Nguyễn Khuyến... mãi mãi lưu truyền hậu thế. Trên khắp đất nước Việt Nam, có những vùng nổi tiếng là đất học với truyền thống học hành, đỗ đạt qua nhiều đời như Kinh Bắc, Thăng Long, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế... với những dòng họ nổi tiếng đem lại vinh quang cho quê hương, đất nước.
Năm 1070, dưới thời Lý, trung tâm giáo dục lớn nhất đồng thời cũng là trường Đại học đầu tiên của nước ta được thành lập, gọi là Quốc Tử Giám đặt ở kinh đô Thăng Long, là nơi đào tạo ra những nhân tài phục vụ cho các triều đại vua chúa. Đến năm 1936, tức là 10 năm sau khi nhà Trần cầm quyền thay thế nhà Lý, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc Tử Viện, không chỉ dạy dỗ con em vua chúa mà còn mở rộng cho con em các quan trong triều vào học. Đến năm 1953, các Nho sĩ trong nước cũng được theo học tại đây. Dưới thời Trần, trường học được mở ra khắp nơi để đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân. Mục tiêu giáo dục thời kì này là nhằm đào tạo những người có đủ tài đức theo quan niệm phong kiến để phục vụ cho chính quyền của nhà vua, có tài kinh bang tế thế và chỉ huy chiến đấu bảo vệ đất nước. Truyền thống tôn sư trọng đạo thấm nhuần trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt. Ngay cả các bậc vua chúa cũng vậy. Nhiều bậc quân vương đã tỏ ra rất trọng thì những người thầy tài cao đức lớn, cung kính vời vào trong cung để dạy dỗ các hoàng tử, công chúa.
Chu Văn An (1292 - 1370) không theo con đường khoa cử đỗ đạt làm. quan, mà ở nhà mở trường dạy học. Ông nổi tiếng khắp nước về đức độ và tài học uyên bác. Một số học trò của Chu Văn An đã đỗ đạt cao, làm quan đầu triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát... nhưng vẫn một lòng kính phục thầy; mỗi lần tới thăm đều cung kính chắp tay lạy tạ thầy. Năm 1325, thầy Chu Văn An được triệu vào cung dạy dỗ các hoàng tử, sau đó nhận chức Tế tửu nhà Thái học, tức Hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám. Sau khi ông mất, để tỏ lòng kính trọng và biết ơn, vua Trần Nghệ Tông đã tôn vinh Chu Văn An là quốc sư, ban cho ông tên hiệu là Văn Trinh và thờ ở Văn Miếu.
Dưới thời Lê sơ, triều đình phong kiến có một bước tiến vượt bậc về mặt khuyến khích, tổ chức học tập, thi cử để phát hiện, đào tạo nhân tài. Đến thời Lê Thánh Tông, việc chọn người có học thành mục tiêu của thi cử. Trong một bài chiếu, nhà vua viết: Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học. Phải chọn người có học thì thi cử là đầu... Ta noi theo chí tiên đế, muốn cầu được hiền tài để thoả lòng mong đợi. Trong Bài kí để danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba do tiến sĩ Thân Nhân Trung biên soạn theo sắc dụ của vua Lê Hiển Tông có đoạn khẳng định: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy th thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước bậc. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở tháp Nhạn, ban danh hiệu Long hổ, bày tiệc văn hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì mà không làm đến mức cao nhất. Các vị đỗ tiến sĩ của từng khoa thi được trân trọng khắc tên vào bia đá dựng ở nhà bia Văn Miếu để lưu danh muôn thuở. Thân Nhân Trung giải thích rõ việc dựng bia không phải là chuyện chuộng văn suông, ham tiếng hão mà là một phương thức để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Đó cũng là kế sách thu phục và sử dụng hiền tài lâu dài của các bậc minh quân.
Ngày xưa, nội dung giáo dục trong nhà trường kết hợp chặt chẽ đức dục với trí dục. Việc dạy chữ song song với việc dạy lễ nghĩa, tức là các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội; cách ăn mặc, đi đứng, cư xử đúng mực, đúng phép tắc, luân lí phong kiến. Tiên học lễ, hậu học văn. Bên cạnh đó, nhà trường phong kiến cũng coi trọng việc khơi dậy tinh thần hiếu học và vẽ ra tương lai tươi sáng để khuyến khích, động viên trò học tập, để mai sau trở nên người hữu ích cho gia đình và xã hội. Thái độ hiếu học đó tạo nên truyền thống tôn sư trọng đạo. Ở làng xã ngày xưa, ông đồ, thầy đồ, giáo học... thường được dân chúng tôn trọng và tin tưởng hỏi ý kiến trong mọi việc lớn nhỏ.
Trong thời đại ngày nay, truyền thống giáo dục và truyền thống tôn sư trọng đạo có từ ngàn xưa được coi là nền tảng để xây dựng một nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa, vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa đáp ứng được yêu cầu cách mạng. Ngành Giáo dục luôn được Nhà nước quan tâm đầu tư, phát triển và vai trò của các thầy cô giáo vẫn được đánh giá cao. Nghề dạy học là nghề trồng người để phục vụ lợi ích lâu dài (lợi ích trăm năm) của dân tộc, đất nước. Vai trò của người thầy là vô cùng quan trọng, vì thế mà xã hội tôn vinh nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý. Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 - 11 hàng năm đều được tổ chức trọng thể, đó cũng là thể hiện của truyền thống tôn sư trọng đạo. Ở tất cả các cấp học, nhà trường vẫn tuân thủ nguyên tắc giáo dục Tiên học lễ, hậu học văn, không chỉ dạy kiến thức toàn diện cho học sinh mà còn dạy đạo đức, dạy đạo lí làm người. Đối với việc nâng cao trình độ học vấn, hình thành nhân cách và tạo dựng sự nghiệp của học sinh, vai trò của người thấy nhiều khi có tính chất quyết định. Ngành Giáo dục và Đào tạo đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển và xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Truyền thống hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc ta cần được tiếp thu có sáng tạo và phát huy hơn nữa trong giai đoạn lịch sử mới hội nhập với thế giới. Trên con đường học vấn đầy gian nan, thử thách, thầy cô giáo vừa là người dẫn đường chỉ lối, vừa là người bạn đồng hành thân thiết của mỗi chúng ta.