I. DÀN Ý

1. Mở bài:

- Vợ nhặt là một truyện ngắn đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân.

- Nội dung truyện kể về một người đàn bà dở sống dở chết vì đói khát được anh Tràng xấu xí, nghèo khổ “nhặt” về làm “vợ”. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống bất ngờ và độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân để khắc hoạ tính cách nhân vật.

- Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật “vợ nhặt”. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp cho mẹ con anh Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế, nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

2. Thân bài:

• Vợ nhặt - người đàn bà không tên:

- Thường thường, nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi. Tên nhân vật nhiều khi toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

- Lấy nhân vật không tên làm tên truyện thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn Kim Lân. Tác giả muốn kể với người đọc câu chuyện xúc động về người vợ nhặt.

* Trước khi theo Tràng về nhà:

- Người đàn bà xuất hiện trong bối cảnh trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Chị ta không tên tuổi, không quê hương, không nghề nghiệp. Ngày ngày, chị ta thường ngồi vạ vật cùng với đám đàn bà con gái trước cửa kho để nhặt thóc gạo rơi vãi hay chờ có ai thuê việc gì thì làm.

- Hình dáng bên ngoài của chị ta mang đặc điểm chung của hàng triệu con người nghèo khổ và đói khát: gầy yêu vào, ngực lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách như tổ đỉa...

- Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu ghẹo của bạn bè. Lần thứ hai gặp Tràng, chị bạo dạn gợi ý để Tràng mời ăn và sau đó ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Chị đói đến mức quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng.

- Cảnh ấy khiến Trang động lòng thương hại. Anh nói: Này, nói đùa chứ có về với tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về ! Ai ngờ chị ta theo về thật.

- Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, vậy mà chị ta đi theo một cách dễ dàng, không đắn đo, sợ hãi. Chị ta trở thành vợ Tràng như một trò đùa. Tràng tình cờ “nhặt” được “vợ” như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường. Thế mới biết cái đói ghê gớm biết chừng nào!

* Sau khi theo Tràng về nhà.

- Chị chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ, xấu trai là để khỏi chết đói chứ chưa có tình cảm gì. Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo Tràng về nhà, chị ta chẳng biết nói gì, chỉ ngượng ngùng khó chịu khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư tò mò nhìn mình.

- Khi vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mởm ở mép giường, hai tay khư khư ôm cái thúng, mặt bần thần... Cải thế ngồi rụt rè và chông chênh ấy nói lên tâm trạng ngổn ngang, bất an của chị. Gặp bà cụ Tứ, chị e ngại, khép nép.

- Bản chất của người con gái đói khổ vô danh này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân về chị rất đôn hậu, bao dung và thương cảm, khiến người đọc xúc động.

- Chỉ qua một đêm làm vợ Tràng, người “vợ nhặt” đã có những biểu hiện tốt đẹp như bao phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, chị vẫn khao khát tình thương và hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị cái đói khủng khiếp làm cho khuất lấp nay đã trở lại.

- Ngòi bút chân thực và hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện sự thương cảm và trân trọng trước hạnh phúc bất ngờ của vợ chồng Tràng. Hạnh phúc vợ chồng đã đem đến một sự thay đổi thật sự ở người vợ nhặt, điều đó làm cho Tràng ngạc nhiên, vui sướng.

- Trong bữa cơm đầu tiên, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Chị không nỡ làm mất đi niềm vui của người mẹ già nua tội nghiệp đang vừa mừng vừa lo vì con trai mình đã có vợ.

- Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này lại là bà mẹ gần đất xa trời; còn người nói đến phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật lại chính là chị vợ nhặt.

3. Kết bài:

- Qua nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc hoạ thành công nhân vật “Vợ nhặt” - người đàn bà vô danh mà không vô nghĩa. Nhân vật vợ nhặt là một nhân chứng tố cáo tội ác tày trời của Nhật - Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm cho hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

- Truyện ngắn Vợ nhặt chứa đựng một sự thật ở đời: Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, những người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Nhà văn ngầm khẳng định trong tương lai, nhất định họ sẽ được sống ấm no, hạnh phúc.

II. BÀI LÀM

Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo bòng thêm cô vợ nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc hoạ tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân vật nào cũng sinh động và chân thực.

Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng ở từng tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải nhận xét là : “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Cho nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.

Cốt truyện xoay quanh sự kiện “nhặt vợ” bất ngờ và trớ trêu của anh Tràng. Nhà Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư nên Tràng bị khinh rẻ. Đã thế, anh ta luống tuổi lại xấu trai nên ế vợ. Trong hoàn cảnh bình thường, Tràng không thể cưới được vợ, ấy vậy mà giữa nạn đói khủng khiếp, anh ta lại “nhặt” được “vợ” một cách tầm phơ tầm phào, chẳng cần phải cưới xin gì.

Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đối chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để nhặt nhạnh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm sống.

Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi, rách như tổ đỉa... người gầy yêu vào, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt... Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ. Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn. Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của mọi người. Khi nghe Tràng hò: Muốn ăn cơm trắng mấy giờ này tại đây mà đẩy xe bò với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chàng ghẹo... thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy ? Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích lắm. Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sĩa trách anh : Điêu. Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quả. Một lúc sau nhở ràng toét miệng cười, đon đả : Này, hãy ngồi xuống đây ăn miếng giầu đã. Chị ta ngúng nguẩy: Ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rich bố cu... hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: Ăn thật nhá ! Ừ ăn thì ăn sợ gì. Chị ta đang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tử của một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần: Thị cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon ! Mê mải. ăn như chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói sắp chết. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện vi nhân cách. Tuy nhiên, ăn xong chị ta cũng biết đùa cho đỡ xấu hổ: Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt: Làm đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này, nói đùa chứ có về với tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật. Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là chuyện tầm phơ tầm phào đâu Có hai ba bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng. Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước hết là để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình cảm gì với nhau đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng” về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt tò mò.

Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngoài ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy vậy mà chị ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng ? Nhẹ dạ chăng ? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã ! Vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tỉnh trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào! Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng. Xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng không sao tránh khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến đầy rẫy những định kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết liệu cái anh chàng mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị thoát khỏi chết đói và những người trong gia đình anh ta có thông cảm mà chấp nhận chị hay không ? Chuyện làm “vợ” đến với chị quả bất ngờ khiến lòng chị không yên. Bên cạnh dáng điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị ta lại càng nổi bật: Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt.

Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì đang diễn ra trong lòng người đàn bà ấy kể từ khi chị đặt bước trên con đường xa lạ. Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép của một cô dâu. Chắc là với chị, con đường ấy dài dằng dặc, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng ? Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” này có mang lại cho chị được chút hạnh phúc ấm áp nào chẳng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình cảnh của chị bây giờ ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu hỏi: Sắp đến chưa ? Vẫn chưa đến à ? Rồi lại: Nhà có ai không ? Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những bụi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo bừa bộn trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán ngán, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực dày lớp nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài. Hoá ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào tủi khoe rích bố cụ là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa ? Việc đã rồi! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quả nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần... Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị chỉ ngồi mớm xuống mép giường ? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là cái thế của tâm trạng ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của chị không ? Liệu mái nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân? Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư hóng mặt bần thần. Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái thúng vào đâu ? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời ? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay ? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm dâu mà như thế này ư? Lấy chồng, đám cưới, rước dâu... Cái hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái chị có được hưởng chút nào đâu ? Buồn lắm! Tủi lắm! Chị không nói được nên lời bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra thành nước mắt mà chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi. Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập. Gặp bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng trào, nhưng bản chất chị ta không phải như vậy.

Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất nhân hậu. Ông không muốn xoáy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy. Khi viết truyện ngắn Vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào từ miền Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra con người.

Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật Vợ nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy sự no đủ nhưng dẫu sao chị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một mẹ già. Chị hiểu như thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng phải đã là một nửa sự sống rồi sao? Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của Tràng, chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với chị. Chị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang. Có bàn tay săn sóc của chi, căn nhà tôi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng năm thì hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Người đàn bà vô danh nhưng không vô nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh khí cho mẹ con Tràng.

Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chỉ là cô vợ nhặt.

Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời; còn người nói đến phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật chia cho người đói lại chính là chị vợ nhặt - người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên để Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê gớm, Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của câu chuyện đáng buồn này.

Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt, nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ nhân hậu và từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả không sai, nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại là hình ảnh người vợ nhặt của anh Tràng. Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc hoạ thành công hình ảnh người vợ nhặt - người đàn bà vô danh. Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật - Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp khẳng định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Những con người như vậy nhất định phải được sống ấm no, hạnh phúc.