ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Bài có thể chia làm ba đoạn:

- Đoạn 1: Từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)”: được tin báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc.

- Đoạn 2: “Vua Quang Trung tự mình đốc xuất đại binh” đến “vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành”: cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.

- Đoạn 3: “Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê” đến “cũng lấy làm xấu hổ”: sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

2. Phân tích hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ:

Tính cách anh hùng của nhân vật:

- Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán: từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà không hề nao núng "định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi chỉ trong vòng một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: “Tế cáo trời đất” lên ngôi Hoàng đế, “đốc xuất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người công sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.

- Trí tuệ sáng suốt, sâu xa, nhạy bén:

Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Chú ý phân tích lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An: khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc (đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng); nêu bật dã tâm của giặc (bụng dạ ắt khác... giết hại nhân dân, vơ vét của cải); truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa; kêu gọi quân lính “đồng tâm hiệp lực”; ra kỉ luật nghiêm... Lời phủ dụ có thể xem như một bài hịch rất ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.

Sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân “đều mang gươm trên lưng và xin chịu tội”. Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người, đúng việc.

- Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng: Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành lại được một tấc đất nào, vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng đối với một nước "lớn gấp mười nước mình” để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”.

- Tài dụng binh như thần: Cuộc hành quân thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân (Huế), ngày 29 đã tới Nghệ An, vượt khoảng 350km qua núi, qua đèo. Tại đây, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh lớn, chỉ trong 1 ngày. Hôm sau tiến quân ra Tam Điệp (giáp giới Ninh Bình, Thanh Hóa cách khoảng 150km). Vậy mà đêm 30 tháng chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. Tất cả đều là đi bộ. Từ Tam Điệp trở ra (khoảng hơn 150km), vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn Tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa liên tục như vậy, nhưng cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, cũng do tài tổ chức của người cầm quân: Hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quang ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.

- Hình ảnh lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chi huy chiến dịch thực sự: hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế... Đội quân của vua Quang Trung không phải toàn là lính thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở Phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hà Nội, “quân lính luân phiên dạ ran ” làm cho lính trong đồn “ai nấy rụng rời sợ hãi”, đều xin hàng, công phá đồn Ngọc Hồi, lấy ván ghép phủ rơm cấp nước để làm mộc che, dàn trận tiến đánh, khi giáp lá cà thì “quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới”...). Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù phải khiếp vía “Thật là: tướng trên trời xuống, quân chui dưới đất lên” và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc họa thật lẫm liệt. Quang Trung trong trận đánh đồn Ngọc Hồi “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì” nhưng nổi bật trên cái nền ấy là hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc”.

Các tác giả Ngô gia văn phái vốn trung thành với nhà Lê lại có thể viết thực và hay về người anh hùng Nguyễn Huệ vì họ tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc cao.

3. Sự thảm hại của bọn tướng lĩnh nhà Thanh:

Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang An Nam là nhằm những lợi ích riêng, lại không muốn tốn nhiều xương máu, nên như lời người cung nhân cũ nói với Thái hậu: “...những điều họ bắt buộc mình phải đương lấy, rất là nặng nề; còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫm mà thôi”. Hơn nữa y còn là một tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết được tình hình thực hư ra sao, lại còn kiêu căng, tự mãn, chủ quan khinh địch. Dù đã được vua tôi Lê Chiêu Thông báo trước, y vẫn không chút đề phòng, suốt mấy ngày Tết “chỉ chăm chú vào yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi.

+ Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp... chuồn trước qua cầu phao” quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều rụng rời sợ hãi” xin ra hàng hoặc “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”. “Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều”, đến nỗi “nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Cả đội binh hùng tướng mạnh, chỉ quen diễu võ dương oai giờ đây chỉ còn biết tháo chạy, mạnh ai nấy chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.

- Số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước, hại dân:

Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta đã vì mưu cầu lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược, lẽ tất nhiên họ phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, không còn đâu tư cách bậc quân vương và kết cục cũng phải chịu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống vội vã cùng mấy bề tôi thân tín “đưa Thái hậu ra ngoài”, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền dân để qua sông “luôn mấy ngày không ăn”. May gặp người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.

Đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh khốn quẫn của vua Lê Chiêu Thống, nhưng tác giả vẫn gửi gắm ở đó một chút cảm xúc riêng của người bề tôi cũ của nhà Lê. Lòng thương cảm biểu hiện qua những giọt nước mắt và thái độ săn sóc tận tình của người thổ hào. Giọng văn cũng có phần ngậm ngùi, khác với âm hưởng sôi nổi, hào hùng ở trên.

So sánh hai đoạn văn miêu tả hai cuộc tháo chạy, một của quân tướng nhà Thanh và một của vua tôi Lê Chiêu Thống. Tất cả đều là tả thực, với những chi tiết cụ thể, nhưng âm hưởng lại rất khác nhau. Đoạn văn trên nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp”, “tan tác bỏ chạy”, “tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau...”, ngòi bút miêu tả khách quan, nhưng vẫn hàm chứa vẻ hả hê, sung sướng của người thắng trận trước sự thảm bại của lũ cướp nước. Ở đoạn văn dưới, nhịp điệu có chậm hơn, tác giả dừng lại miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt thương cảm của người thổ hào, nước mắt tủi hổ của vua tôi Lê Chiêu Thống, cuộc tiếp đãi thịnh tình “giết gà làm cơm” của kẻ bề tôi... âm hưởng có phần ngậm ngùi, chua xót. Là những cựu thần của nhà Lê, các tác giả không thể không mủi lòng trước sự sụp đổ của một vương triều mà mình từng phụng thờ, tuy vẫn hiểu đó là kết cục không thể tránh khỏi.