ĐỌC - HIỂU BĂN BẢN

1. Mười hai câu đầu là cảnh Thúy Kiều báo ân (trả ơn).

- Thúc Sinh được mời tới trong cảnh oai nghiêm của nơi Kiều xử án: “Cho gươm mời đến Thúc Lang”. Trước những gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức mất cả thần sắc “mặt như chàm đổ”, người run lên như đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách nhu nhược của Thúc Sinh. Hình ảnh tội nghiệp của Thúc Sinh có thể làm Kiều động lòng trắc ẩn không nỡ đánh người yếu thế và cũng tạo nên sự bất ngờ trong việc trả ơn, báo oán tiếp theo.

- Qua lời nói của Kiều, có thể thấy rằng nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:

+ Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát cảnh đời ô nhục. Cùng với chàng Thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình. Nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Trong hình thức của cách nói văn chương, sách vở là tấm lòng biết ơn chân thật của Kiều. Hai chữ “người cũ” tiếng Việt mang sắc thái thân mật gần gũi, khác với hai chữ “cố nhân” mang sắc thái trang trọng.

+ Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời Kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ nhưng đau đớn hơn một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên, Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Thúy Kiều thấy hiểu hoàn cảnh của Thúc Sinh: “Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”. Với Kiều thì dù có “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa để xứng với ơn nghĩa của Thúc Sinh. Tấm lòng “nghĩa nặng nghìn non” thì gấm vóc, vàng bạc nào có thể cân cho được.

+ Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán Việt: “nghĩa”, chữ “tòng”, “cố nhân”, “tạ lòng”... điển cố: “Sâm Thương”. Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều.

- Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa. Lúc nói về Hoạn Thư, ngôn ngữ của Kiều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc: “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” với những từ Việt dễ hiểu. Hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.

2. Những câu thơ còn lại là cảnh Thúy Kiều báo oán.

- Hành động, lời nói của Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư. Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều “chào thưa”, hai điều “tiểu thư”. Cách xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay bậc đổi ngôi, là một đòn mỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn.

- Trong lời nói của Kiều có cả giọng đay nghiến khi câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt, càng oan trái... Cách nói này hoàn toàn phù hợp với đối tượng là Hoạn Thư, phù hợp với con người “Bề ngoài thơn thớt nói cười – Bề trong nham hiểm giết người không dao”.

Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm dân gian “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại”, “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.

3. Trước lời nói, thái độ của Kiều, phút giây đầu Hoạn Thư có “hồn lạc, phách xiêu”. Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn kịp “liệu điều kêu ca”. Đây quả là con người khôn ngoan, giảo hoạt.

+ Trước hết, Hoạn Thư dựa vào tâm lý thường tình của người phụ nữ để gỡ tội: “Rằng: Tôi chút phận đàn bà – Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. Lí lẽ này đã xóa đi sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ tội nhân, Hoạn Thư đã dùng lí lẽ khôn ngoan để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê.

+ Tiếp đến Hoạn Thư kể lại “công” đã cho Kiều ra viết kinh ở gác Quân Âm và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn.

+ Cuối cùng Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung, độ lượng lớn rộng như trời biển của Kiều: “Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.

4. Trước những lời kêu ca của Hoạn Thư, Kiều đã phải thừa nhận đây là con người “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Hoạn Thư đưa Kiều tới chỗ khó xử: “Tha ra thì cũng may đời - Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Nàng có răn đe Hoạn Thư nhưng rồi lại khoan dung độ lượng: “Đã lòng tri quá thì nên”. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm triết lí nhân gian: “Đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”.

Qua cách lí lẽ để gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư “sâu sắc nước đời” đến “quỷ quái tinh ma”. Tuy nhiên việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự “tự bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán một lần nữa làm ngời lên tấm lòng vị tha, nhân hậu của Thúy Kiều.