I. TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

Tìm hiểu các đoạn trích.

1. Đoạn 1: Đây là suy nghĩ nội tâm của ông giáo trong truyện Lão Hạc của Nam Cao.

a) Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.

b) Phát triển vấn đề:

- Khi người ta khổ quá thì người không còn nghĩ đến ai trước nữa (như quy luật tự nhiên trên mà thôi).

- Vì cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất.

c) Kết thúc vấn đề: “Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không giận.”

Về hình thức, đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính chất lập luận. Đó là các câu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng nếu... thì; vì thế... cho nên; sở dĩ... là vì; khi A... thì B... Các câu văn trong đoạn trích đều là những câu khẳng định, ngắn gọn, khúc chiết như diễn đạt những chân lí.

Tất cả các đặc điểm nội dung, hình thức và cách lập luận vừa nêu trên đều rất phù hợp với tính cách của nhân vật ông giáo - một người có học trong truyện Lão Hạc.

2. Đoạn 2: Trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, có thể thấy cuộc đối thoại giữa Kiều và Hoạn Thư được diễn ra dưới hình thức lập luận. Hình thức này rất phù hợp với một phiên tòa. Trước tòa án, điều quan trọng nhất là người ta phải trình bày lí lẽ, chứng lí, nhân chứng, vật chứng sao cho có sức thuyết phục. Trong phiên toà này, Kiều là luật sư buộc tội, còn Hoạn Thư là bị cáo. Mỗi bên đều có lập luận của mình.

II. LUYỆN TẬP

1. Trong đoạn trích Lão Hạc nêu trên, đó là lời của ông giáo, ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình, rằng vợ mình không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.

2. Lập luận của Kiều thể hiện ở mấy câu đầu. Sau câu chào mỉa mai là lời đay nghiến: Xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ – và xưa nay càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái. Hoạn Thư trong cơn “hồn lạc phách xiêu” ấy vẫn biện minh cho mình bằng một đoạn lập luận thật xuất sắc. Trong 8 dòng thơ, Hoạn Thư nêu lên bốn “luận điểm”:

Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình (nêu một lẽ thường).

Thứ hai: Ngoài ra, tôi cũng đã đối xử rất tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo (kể công).

Thứ ba: Tôi với cô đều trong cảnh chồng chung - chắc gì ai nhường cho ai.

Thứ tư: Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông chờ vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (nhận tội và đề cao, tâng bốc Kiều).