1. Ngữ văn 9, tập một có các nội dung lớn sau đây:
a) Văn bản thuyết minh với trọng tâm là luyện tập việc kết hợp giữa thuyết minh với các phương thức khác như: lập luận giải thích, miêu tả.
b) Văn bản tự sự với hai trọng tâm:
Một là: Sự kết hợp giữa tự sự với biểu cảm và miêu tả nội tâm, giữa tự sự và lập luận.
Hai là: Một số nội dung mới trong văn bản tự sự như: đối thoại và độc thoại nội tâm trong tự sự: người kể chuyện và vai trò của người kể chuyện trong tự sự.
2. Vai trò, vị trí, tác dụng của giải thích và miêu tả trong văn bản thuyết minh (cho ví dụ cụ thể).
Trong thuyết minh, nhiều khi người ta phải giải thích để làm rõ sự vật cần giới thiệu, nhất là khi gặp các thuật ngữ, khái niệm chuyên môn, hoặc những nội dung trừu tượng. Chẳng hạn khi thuyết minh về một ngôi chùa cổ, người thuyết minh có khi phải giải thích về kết cấu, những đặc điểm về kiến trúc, hoặc giải thích về một khái niệm nào đó trong quan niệm của nhà Phật được thể hiện ở cấu trúc ngôi chùa... Và đương nhiên cũng phải vận dụng miêu tả ở đây để người nghe hình dung ra ngôi chùa ấy có dáng vẻ như thế nào; màu sắc, không gian, hình khối, cảnh vật xung quanh... Từ đó cho học sinh thấy nếu thiếu các yếu tố giải thích, miêu tả, bài thuyết minh sẽ không rõ ràng, khó hiểu và thiếu sinh động.
3. Tuy nhiên cũng phải thấy, thuyết minh và miêu tả, giải thích có những điểm khác nhau. Có thể nêu lên sự khác nhau giữa văn thuyết minh và văn miêu tả bằng các điểm chủ yếu như bảng sau:
Miêu tả | Thuyết minh |
- Có hư cấu tưởng tượng, không nhất thiết phải trung thành với sự vật. - Dùng nhiều so sánh, liên tưởng. - Mang nhiều cảm xúc chủ quan của người viết. - Ít dùng số liệu cụ thể, chi tiết. - Dùng nhiều trong sáng tác văn chương, nghệ thuật. - Ít tính khuôn mẫu. - Đa nghĩa. | - Trung thành với đặc điểm của đối tượng, sự vật. - Ít dùng tưởng tượng, so sánh. - Bảo đảm tính khách quan. - Dùng nhiều số liệu cụ thể, chi tiết. - Ứng dụng trong nhiều tình huống cuộc sống, văn hóa, khoa học... - Thường theo một số yêu cầu giống nhau (mẫu). - Đơn nghĩa. |
4- Đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả nội tâm:
“Thực sự mẹ không lo lắng đến nỗi không ngủ được. Mẹ tin đứa con của mẹ lớn rồi. Mẹ tin vào sự chuẩn bị rất chu đáo cho con trước ngày khai trường. Còn điều gì để lo lắng nữa đâu! Mẹ không lo, nhưng vẫn không ngủ được. Cứ nhắm mắt lại là dường như vang bên tai tiếng đọc bài trầm bổng: “Hằng năm, cứ vào cuối thu... Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.
(Lí Lan, Cổng trường mở ra, trong Ngữ văn 7, tập một, NXB Giáo dục, 2002)
- Đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố lập luận:
“Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quận Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các người đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo ta không nói trước!” (Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí)
- Đoạn văn tự sự sử dụng cả miêu tả nội tâm và lập luận:
“Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn việt ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo:
- Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu: Lão vừa xin tôi một ít bả chó...
Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:
- Lão bảo có con chó nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.
Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết... Một người như thế ấy!... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng... Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời này quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn...” (Nam Cao, Lão Hạc, trong Ngữ văn 8, tập một)
5. Ví dụ về đoạn văn tự sự có sử dụng các yếu tố đối thoại và độc thoại nội tâm:
“[...] tôi cất giọng véo von:
Cái Cò, cái Vạc, cái Nông
Ba cái cùng béo vặt lông cái nào?
Vặt lông cái Cốc cho tao
Tao nấu, tao nướng, tao xào, tao ăn.
Chị Cốc thoạt nghe tiếng hát từ trong đất văng vẳng lên, không hiểu như thế nào, giật nẩy hai đầu cánh, muốn bay. Đến khi định thần lại, chị mới trợn tròn mắt, giương cánh lên, như sắp đánh nhau.
Chị lò dò về phía cửa hang tối, hỏi:
- Đứa nào cạnh khóe gì tao thế? Đứa nào cạnh khóe gì tao thế?
Tôi chui tọt ngay vào hang, lên giường nằm khểnh bắt chân chữ ngũ. Bụng nghĩ thú vị: “Mày tức thì mày cứ tức, mày ghè vỡ đầu mày ra cho nhỏ đi, nhỏ đến đâu thì mày cũng không chui nổi vào tổ tao đâu!”.
(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí, trong Ngữ Văn 6, tập hai, NXB Giáo dục, 2002)