ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Khung cảnh thiên nhiên trong sáu câu đầu được nhìn qua con mắt Kiều:

+ Nàng trơ trọi giữa không gian, thời gian, mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “Bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”, “trăng gần” như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích cao ngất nghểu, trơ trọi giữa mênh mông trời nước. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trợ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người.

+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân”. Nàng chỉ còn biết bạn với mây đèn. Nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối.

2. Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên tâm trạng của Kiều:

a) Đầu tiên, Kiều nhớ tới Kim Trọng. Điều này phù hợp với quy luật tâm lí, vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ người tình là nhớ đến tình yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ tới lời thề đôi lứa: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Một lần khác, nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Nàng tưởng tượng cảnh Kim Trọng cũng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”. Nàng nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau đớn xót xa. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” có hai cách hiểu: tấm lòng son là tấm lòng nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi quên, hoặc tấm lòng son trong trắng của Kiều bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa?

b) Tiếp đó, Kiều nhớ đến cha mẹ. Nghĩ tới song thân, Kiều thương và xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không được chăm nom và hiện thời ai người săn sóc? Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là “gốc tử đã vừa người ôm”, nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian cách xa bao mùa mưa nắng, vừa nói lên được sức mạnh tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với cảnh vật và con người. Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều cũng nhớ “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy con cái của cha mẹ.

c) Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là đáng thương nhất. Nhưng nàng đã quên cảnh ngộ của bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Kiều là người tình thuỷ chung, người con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng.

3. Tám câu thơ cuối tả cảnh để ngụ tình:

a) Diễn tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Mỗi biểu hiện của cảnh phù hợp với từng trạng thái tình cảm. Kiều nhớ cha mẹ, nhớ quê hương thì: “Buồn trông cửa bể chiều hôm – Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Khi buồn nhớ người yêu và cũng là xót xa cho duyên phận thì: “Buồn trông ngon nước mới sa – Hoa trôi man mác biết là về đâu”. Lúc buồn cho cảnh ngộ chính mình thì: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh - Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều. Và, quả thực, ngay sau lúc này, Kiều đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

b) Về mặt nghệ thuật, ta cần chú ý cụm từ “buồn trông" mở đầu câu thơ sáu chữ, tạo âm hưởng trầm buồn. “Buồn trông” đã trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng.