I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Nhà thơ Tế Hanh tên khai sinh là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20 – 6 – 1921 tại xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Tham gia cách mạng từ tháng 8 – 1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hoá, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng. Năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách Liên đoàn kháng chiến Nam Trung Bộ; Uỷ viên Thường vụ Hội Văn nghệ Trung ương. Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Uỷ viên Thường vụ Hội khoá I, II, Uỷ viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1963), ông tham gia nhiều khoá Ban chấp hành Hội Nhà văn, giữ các chức vụ: Trưởng ban Đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng dịch (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).

Ông đã xuất bản các tập thơ: Hoa niên (1945); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1953); Bài thơ tháng bảy (1961); Hai nửa yêu thương (1963); Khúc ca mới (1966); Đi suốt bài ca (1970); Câu chuyện quê hương (1973); Theo nhịp tháng ngày (1974); Giữa những ngày xuân (1977); Con đường và dòng sông (1980); Bài ca sự sống (1985); Tế Hanh tuyển tập (1987); Thơ Tế Hanh (1989); Vườn xưa (1992); Giữa anh và em (1992); Em chờ anh (1994). Ngoài ra ông còn xuất bản các tập tiểu luận, và nhiều tập thơ viết cho thiếu nhi. Ông cũng đã cho xuất bản nhiều tập thơ dịch của các nhà thơ lớn trên thế giới.

Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học: Giải Tự lực văn đoàn năm 1939; Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (năm 1996).

2. Bài thơ Quê hương thể hiện tình cảm nhớ thương tha thiết của tác giả đối với quê hương. Trong dòng hồi nhớ, nhà thơ khắc hoạ hình ảnh một làng quê miền biển tươi sáng, đầy sức sống. Bức tranh quê hương mang vẻ đẹp khoẻ khoắn, mặn mòi của cuộc sống lao động, tuy bình dị mà đằm thắm, lắng sâu.

Bài thơ sử dụng các biện pháp nghệ thuật rất đặc sắc: so sánh (Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng - Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...), ẩn dụ (Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng - Cả thân hình nồng thở vị xa xăm) và nhân hoá (Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm – Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ). Bài thơ sử dụng kết hợp phương thức miêu tả và biểu cảm. Nhờ sự kết hợp này mà hình ảnh thơ vừa lột tả được chân thực, tinh tế cảnh vật và con người của cuộc sống miền biển vừa thể hiện sâu sắc những rung động của tâm hồn nhà thơ.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Tác giả đã khắc hoạ thật sinh động cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi và cảnh đón thuyền cá về bến:

- Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi (từ câu Khi trời trong... đến câu Rướn thân trắng...):

+ Hai câu mở ra khung cảnh buổi sớm đẹp trời và hoạt động của người dân miền biển: Khi trời trong gió nhẹ, sớm mai hồng - Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Khung cảnh toát lên vẻ thơ thới, trong trẻo. Hình ảnh trai tráng gợi cảm giác phấn chấn của một ngày lao động mới.

+ Nổi bật lên trên nền cảnh tươi sáng, ấm áp là hình ảnh con thuyền lướt sóng ra khơi: Sức mạnh dũng mãnh của con thuyền băng băng vượt trường giang được so sánh như sức mạnh của tuấn mã; các từ ngữ diễn tả hoạt động với sắc thái mạnh mẽ (hăng, phăng, vượt).

+ Hình ảnh cánh buồm trắng rướn mình, căng tràn gió khơi lồng lộng tượng trưng cho hồn cốt, thần thái của con người miền biển, là hình ảnh thực được cảm nhận qua tâm hồn một người con hướng về quê hương với tình cảm thành kính, thiêng liêng.

- Cảnh đón thuyền cá về bến (từ câu Ngày hôm sau... đến câu Nghe chất muối...): Nhà thơ miêu tả cảnh thuyền cá về bến sau một ngày lao động trên biển và nét rất riêng của con người và cảnh vật vùng biển khi đánh cá trở về.

+ Cảnh ồn ào, tấp nập trên bến khi đón thuyền về và niềm vui trước những thành quả lao động gợi ra một sức sống, nhịp sống náo nhiệt.

+ Hình ảnh người dân chài: chú ý hình ảnh Cả thân hình nồng thở vị xa xăm (xem phân tích ở câu 2).

+ Hình ảnh con thuyền: "sự mệt mỏi say sưa của con thuyền lúc trở về bến" (Hoài Thanh) vừa là cái hồn của cảnh được cảm nhận hết sức tài hoa, vừa cho thấy tình cảm đằm sâu, máu thịt của tác giả trong đó.

2. Phân tích một số câu thơ có sử dụng biện pháp so sánh và ẩn dụ

- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng - Rướn thân trắng bao la thâu góp gió:

+ Hình ảnh thực trong sự quan sát tinh tế: cánh buồm giương to, rướn thân trắng thâu góp gió. Cánh buồm màu trắng no gió nổi bật trong bức tranh làng chài khi bình minh.

+ Hình ảnh cánh buồm được so sánh với mảnh hồn làng: cái vô hình, vô sắc được cụ thể hoá bằng một hình ảnh có hình khối, đường nét, màu sắc. Cảnh mang hồn người, nhà thơ đã thổi vào cảnh linh hồn của làng chài. Cánh buồm vốn gắn bó, gần gũi trong cuộc sống của dân chài trở thành một hình ảnh thơ bay bổng, giàu tính tượng trưng.

- Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng - Cả thân hình nồng thở vị xa xăm:

+ Tả thực dân chài lưới làn da rám nắng.

+ Sử dụng biện pháp ẩn dụ để thể hiện cảm nhận bằng xúc giác (vị), cái vốn chỉ được cảm nhận bằng thị giác (thân hình).

Những câu thơ tả cảnh thuyền cá về bến toát lên vẻ đẹp mặn mòi của biển, thấm đượm xúc cảm bâng khuâng thương nhớ của người con xa quê hương.

3. Tình cảm của tác giả đối với cảnh vật, cuộc sống và con người của quê hương thấm đượm trong từng hình ảnh, xuyên suốt bài thơ và được thể hiện trực tiếp ở khổ thơ.

- Trong mạch cảm xúc hồi tưởng trào dâng da diết ánh lên vẻ đẹp thân thuộc, gắn bó với cuộc sống miền biển, còn đậm nét trong kí ức của tác giả: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, thuyền rẽ sóng chạy ra khơi.

- Vị mặn của biển cả lan thấm suốt từ đầu bài thơ, đến đây thành cái mùi nồng mặn ám ảnh khôn nguôi trong kí ức của nhà thơ.

Nhà thơ đã gửi gắm trong những câu thơ giản dị mà tinh tế, tài hoa mà ân tình sâu nặng đối với quê hương miền biển của mình. Bức tranh quê biển có chút man mác buồn nhớ nhưng chủ đạo vẫn là vẻ đẹp khoẻ khoắn, trong trẻo, nét vạm vỡ, sức sống căng đầy...

4. Những đặc sắc nghệ thuật: Xem mục I-2.

III – THAM KHẢO

Chủ đề quen thuộc và thành công hơn cả của Tế Hanh là tình cảm với miền Nam quê hương, là ý chí đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Nhiều bài thơ của ông ở trong số những bài tiêu biểu cho đề tài này của thơ ca Việt Nam đương thời: Nhớ con sông quê hương, Chiêm bao, Nói chuyện với sông Hiền Lương, Mặt quê hương... Phong cảnh và con người quê hương thường được tái hiện với những tình cảm khi lắng đọng, khi dào dạt, những điều thiết tha, chân thành trong những kỉ niệm tươi thắm. Đồng thời, Tế Hanh cũng viết về cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, ngợi ca những biến đổi cách mạng trong những biểu hiện bình thường của cuộc sống hàng ngày, ca ngợi hạnh phúc bình dị của cuộc sống mới.

Trong thơ Tế Hanh, cảm xúc chân thực thường được diễn đạt bằng lời thơ giản dị, tự nhiên, giàu hình ảnh. Tiếng nói nhỏ nhẹ, hiền hoà bình dị nhưng không kém phần tha thiết đã giúp cho thơ Tế Hanh dễ dàng đến được với người đọc.

(Nguyễn Văn Long, trong từ điển văn học tập hai, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984)