I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Để tác động đến người nghe, người đọc về nhận thức, tình cảm và hành động, văn nghị luận không phải lúc nào cũng dùng những yếu tố lí trí mà còn cần dùng cả những yếu tố biểu cảm. Những yếu tố này giúp cho văn nghị luận trở nên có tính thuyết phục hơn, vì nó góp phần tác động mạnh hơn đến tình cảm của người nghe, người đọc.

Muốn văn nghị luận có sức biểu cảm, người làm văn phải thực sự có cảm xúc, có những rung động về chính những vấn đề mình trình bày. Nếu đó chỉ là những tình cảm giả tạo, những cảm xúc hời hợt thì bài viết sẽ không có sức thuyết phục. Văn nghị luận chỉ có thể tác động đến tình cảm của người đọc bằng chính những rung cảm thực sự của người viết đối với những điều mình để cập đến trong bài văn.

2. Người làm văn cần phải có năng lực sử dụng từ ngữ, câu văn, hình ảnh đủ để thể hiện sinh động, đúng đắn nhất trạng thái cảm xúc của mình. Bởi vậy, muốn bài văn nghị luận giàu cảm xúc, người làm văn một mặt phải biết đảm bảo chất nghị luận trong bài viết, nghĩa là phải tác động được tới lí trí của người đọc, làm họ sáng tỏ vấn đề; mặt khác cần phải tác động đến tình cảm của họ.

II – HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI

1. Tìm hiểu văn bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, chúng ta thấy:

a) Trong văn bản này có nhiều những từ ngữ và câu văn bộc lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả trong bài văn:

- Từ ngữ: muốn hoà bình, phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm cướp nước ta, thà hi sinh, nhất định không phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.

-Câu văn (cảm thán):

+ Hỡi đồng bào toàn quốc!

+ Hỡi anh em binh sĩ tự vệ, dân quân!

+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Cách dùng từ ngữ của văn bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn giống nhau ở việc sử dụng nhiều từ ngữ và câu văn truyền cảm trong khi trình bày các vấn đề trong văn bản.

b) Nhưng cả hai văn bản này đều là những văn bản nghị luận mà không phải là văn bản biểu cảm. Bởi lẽ, cả hai được viết ra không nhằm mục đích bộc lộ cảm xúc mà nhằm mục đích tác động tới lí trí của người đọc để bàn về lẽ phải, trái, đúng, sai của một quan điểm, một ý kiến. Những yếu tố biểu cảm chỉ nhằm để tăng thêm sức thuyết phục cho những ý kiến nêu ra trong văn bản nghị luận.

c) Những câu văn ở cột 2 có sức truyền cảm hơn cột 1 vì trong câu văn ở cột 2 có nhiều những từ ngữ bộc lộ thái độ, tình cảm của người viết hơn và vì thế mà giàu chất văn, giàu cảm xúc hơn. Ví dụ, nếu tác giả chỉ viết "Thấy sứ giặc đi lại ngoài đường" thì người đọc chỉ nhận được sự tường thuật khách quan sự việc. Nhưng khi tác giả viết "Thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường" thì người đọc lại nhận ra thêm cả thái độ tức giận, căm hờn của người viết dồn nén trong câu chữ đối với việc được thuật lại kia. Viết như vậy là có sức truyền cảm.

2. Thông qua việc tìm hiểu hai văn bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Hịch tướng sĩ, chúng ta thấy:

- Khi làm bài văn nghị luận, ta không chỉ cần suy nghĩ về việc xây dựng luận điểm và lập luận cho bài văn đó mà còn cần sự xúc cảm, rung cảm. Bởi lẽ nghị luận cần vừa phải tác động đến nhận thức, lí trí, vừa phải tác động đến tình cảm, đến trái tim của người đọc, người nghe. Luận điểm và lập luận chủ yếu tác động mạnh tới lí trí, giúp cho người đọc, người nghe sáng tỏ vấn đề hơn. Còn muốn tác động tới tình cảm, người viết phải có những rung động, những cảm xúc thực sự trước vấn đề mà mình trình bày. Khi tình cảm, cảm xúc giả tạo hoặc hời hợt thì ngôn từ cũng sẽ khiên cưỡng, lời lẽ cũng sẽ giả tạo, vì vậy cũng không thể nói tới chuyện tác động đến trái tim, đến khối óc của người đọc, người nghe.

- Không phải một bài văn nghị luận nào cứ dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, nhiều câu cảm thán thì giá trị biểu cảm càng tăng, vì:

+ Biểu cảm, cảm thán chỉ là những yếu tố phụ trợ của văn nghị luận.

+ Muốn có giá trị biểu cảm thì yếu tố biểu cảm cần phải dùng đúng lúc, đúng chỗ.

+ Biểu cảm chỉ có giá trị khi đó là những rung động, những xúc cảm thực sự mà không phải là sự giả dối, sự đưa đẩy bóng bẩy bằng ngôn từ.

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. a) Những yếu tố biểu cảm trong Chiến tranh và "người bản xứ" (trích Thuế máu) được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập nhau, hoặc mang tính chất mỉa mai, châm biếm:

- những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu > < những đứa "con yêu", những người "bạn hiền", chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do

- chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột >< đột ngột xa lìa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường

- cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái

- bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng

- lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy

- khạc ra từng miếng phổi

b) Tác dụng của các từ ngữ này:

Giúp cho người đọc thấy rõ được bộ mặt thâm độc, giả nhân giả nghĩa cũng như âm mưu quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa làm bia đỡ đạn cho chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Chính những từ ngữ này đã làm tính mỉa mai, trào phúng của bài viết mạnh mẽ hơn và vì thế sức tác động và sự thuyết phục đối với người đọc, người nghe cũng mạnh mẽ hơn.

2. Đoạn trích trong bài tập này đã thể hiện những cảm xúc chủ yếu sau đây của tác giả:

- Nỗi buồn của tác giả – một nhà giáo có tâm huyết với nghề dạy học – trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.

- Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước một thực tế đáng buồn diễn ra trong đời sống giáo dục nước nhà trước đây.

Đoạn trích này không chỉ tác động tới lí trí mà còn tác động tới tình cảm vì:

- Giọng văn mang đầy chất tâm sự chứa đựng nỗi băn khoăn, day dứt của người viết.

- Câu văn được viết dưới dạng của những câu hỏi tu từ, mang tính chất bộc lộ thái độ và thể hiện nỗi đau của tác giả một cách kín đáo:

+ Nói làm sao cho...

+ Không có lý do gì phải nhấm bút...

+ Sao không có một "hãng" nào đó in ra...

- Từ ngữ thể hiện thái độ, tình cảm xuất hiện tương đối nhiều: nỗi khổ tâm, đeo một cái "nghiệp" năm trời, không có lý do gì, như con vẹt, việc gì còn phải lôi thôi, bắt trẻ em ngày ngày phải đến trường,...

3. HS tự làm.

Gợi ý:

a) Giải thích rõ hơn quan niệm:

- Học vẹt: học mà không hiểu gì

-Học tủ:

+ Chỉ học một vài nội dung cho là sẽ thi, sẽ kiểm tra

+ Học mang tính chất đối phó

b) Phân tích tác hại của học vẹt, học tủ:

- Không thu nhận được kiến thức thực sự, không rèn luyện được sự sáng tạo, trí thông minh.

- Kiến thức phiến diện, lệch lạc.

- Khi làm bài cần suy luận hoặc "lệch tủ" sẽ không thể làm được bài, phải nhận điểm kém.

- Học vẹt, học tủ không thể tiến nhanh và tiến xa được.