HƯỚNG DẪN TỔNG KẾT

3. So với văn nghị luận hiện đại, văn nghị luận trung đại có những sự khác biệt đáng kể:

- Từ ngữ cổ, cách diễn đạt cổ, những hình ảnh thường có tính ước lệ, câu văn được viết theo lối biền ngẫu, sóng đôi nhịp nhàng. Sử dụng nhiều điển tích, điển cố. Viết bằng chữ Hán, chia ra thành các thể theo chức năng; thường gắn với những sự kiện lịch sử trọng đại.

- Nghị luận trung đại thể hiện rõ thế giới quan con người trung đại: tư tưởng "mệnh trời", đạo "thần chủ", lí tưởng nhân nghĩa,...

Ngược lại với những đặc điểm trên, văn nghị luận hiện đại thường có lối viết giản dị, câu văn gần với đời sống hằng ngày,...

Mặc dù vậy, các văn bản đó vẫn được xếp chung vào văn nghị luận, tức mang những đặc điểm đặc trưng của thể nghị luận.

4. Một số khái niệm liên quan:

- Có lí: Có luận điểm xác đáng, lập luận chặt chẽ.

- Có tình: Thể hiện được xúc cảm của người viết. Tuy nhiên, khác với văn sáng tác, cảm xúc của tác giả không bộc lộ rõ ràng qua ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc mà bộc lộ kín đáo qua hệ thống lập luận. Điều quan trọng là người viết phải thể hiện được niềm tin, thái độ (khẳng định, phê phán) hay một khát vọng mạnh mẽ đối với vấn đề được đề cập đến.

- Có chứng cứ: Đưa ra được những sự thật hiển nhiên để khẳng định luận điểm.

Dựa trên các khái niệm này, HS chứng minh bằng cách xác định các yếu tố trong các bài nghị luận cụ thể.

5. So sánh sự giống và khác nhau về nội dung tư tưởng và hình thức thể loại của ba tác phẩm: Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ và Nước Đại Việt ta:

- Giống nhau: Đều bao trùm một tinh thần dân tộc sâu sắc, lòng yêu nước nồng nàn, thái độ thẳng thắn, dứt khoát của người viết được thể hiện qua những câu văn hùng tráng, mạnh mẽ.

- Khác nhau:

+ Chiếu dời đô: Thể hiện ý chí tự cường của một dân tộc đang lớn mạnh.

+ Hịch tướng sĩ: Tinh thần quyết chiến quyết thắng lũ giặc bạo tàn.

+ Nước Đại Việt ta: Ý thức sâu sắc, đầy tự hào về đất nước độc lập, có chủ quyền.

6. Sở dĩ Bình Ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam khi đó vì bài cáo đã khẳng định dứt khoát rằng Việt Nam là một nước độc lập – đó là một sự thật hiển nhiên.

So với bài Sông núi nước Nam, ý thức về nền độc lập dân tộc trong bài Nước Đại Việt ta được phát triển sâu sắc và toàn diện hơn. Ngoài hai yếu tố lãnh thổ và chủ quyền, ý thức độc lập còn được mở rộng, bổ sung bằng các yếu tố mới, đầy ý nghĩa. Đó là một nền văn hiến lâu đời, là tập quán riêng, là truyền thống lịch sử anh hùng...